Giúp Con Học Tốt Toán Lớp 4

Giúp Con Học Tốt Toán Lớp 4

Bước vào lớp 6, trẻ đối diện với rất nhiều thay đổi về môi trường học tập, phương pháp giảng dạy và tâm lý. Điều này có thể ảnh hưởng lớn đến kết quả học tập, đặc biệt là môn Toán. Nhiều học sinh mất gốc Toán khi chuyển cấp, khiến các bậc phụ huynh lo lắng. Bài viết này sẽ chia sẻ những kinh nghiệm dạy con học Toán lớp 6, giúp các em từ mất gốc lấy lại nền tảng kiến thức, thậm chí đạt điểm 8+.

Bước vào lớp 6, trẻ đối diện với rất nhiều thay đổi về môi trường học tập, phương pháp giảng dạy và tâm lý. Điều này có thể ảnh hưởng lớn đến kết quả học tập, đặc biệt là môn Toán. Nhiều học sinh mất gốc Toán khi chuyển cấp, khiến các bậc phụ huynh lo lắng. Bài viết này sẽ chia sẻ những kinh nghiệm dạy con học Toán lớp 6, giúp các em từ mất gốc lấy lại nền tảng kiến thức, thậm chí đạt điểm 8+.

Lộ trình học phù hợp, khơi dậy niềm đam mê học Toán

Không nên ép con phải học quá nhiều trong một thời gian ngắn. Thay vào đó, cha mẹ nên tạo một lộ trình học phù hợp với khả năng của trẻ, kết hợp giữa học lý thuyết và thực hành. Quan trọng nhất là khơi dậy niềm hứng khởi, để trẻ cảm thấy Toán không còn là một môn học khó mà là một thử thách thú vị.

Phương pháp tự học có sự hướng dẫn của thầy cô hoặc cha mẹ là cách tiếp cận hiệu quả cho trẻ mất gốc Toán. Thay vì chỉ cung cấp đáp án, người hướng dẫn cần giúp con tìm ra cách giải quyết vấn đề thông qua câu hỏi gợi mở. Phương pháp này không chỉ giúp trẻ nắm vững kiến thức mà còn phát triển khả năng tự học và tư duy độc lập.

Đồng hành cùng con trong việc học

Không nên để con tự bơi trong biển kiến thức mà cha mẹ nên đồng hành và hỗ trợ kịp thời khi con gặp khó khăn. Cha mẹ có thể kiểm tra bài tập, giải thích lại những vấn đề con chưa hiểu và cung cấp thêm tài liệu tham khảo. Việc này giúp con cảm thấy có người luôn sẵn sàng giúp đỡ và động viên trong quá trình học tập.

Khuyến khích con tự học và tự giải quyết vấn đề

Một trong những kỹ năng quan trọng nhất để giỏi Toán là khả năng tự học. Cha mẹ nên khuyến khích con giải quyết các bài toán khó một cách độc lập trước khi nhờ sự giúp đỡ. Điều này sẽ giúp con phát triển tư duy logic và khả năng giải quyết vấn đề.

Học Toán là một quá trình liên tục

Không có con đường nào tắt để giỏi Toán. Học Toán đòi hỏi sự kiên nhẫn và nỗ lực không ngừng. Vì vậy, cha mẹ cần giúp con hiểu rằng việc học Toán là một hành trình dài, không thể đạt được thành quả chỉ trong một sớm một chiều. Việc duy trì thói quen học Toán hàng ngày và giải quyết các vấn đề từ đơn giản đến phức tạp sẽ giúp con dần dần tiến bộ.

Thay đổi phương pháp giảng dạy và môi trường học tập

Lên lớp 6, trẻ không còn học cùng một giáo viên cho tất cả các môn như khi ở tiểu học. Thay vào đó, các em phải làm quen với nhiều thầy cô khác nhau, mỗi người có cách giảng dạy riêng. Sự thay đổi lớn này có thể khiến trẻ cảm thấy lạc lõng và không thích nghi kịp. Bên cạnh đó, môi trường học cấp hai yêu cầu học sinh phải tự giác hơn, trong khi các em chưa quen với điều này, dẫn đến khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức.

Bước vào giai đoạn chuyển cấp, nhiều học sinh cảm thấy hoang mang trước sự thay đổi về bạn bè, thầy cô và cách học. Sự thay đổi đột ngột này có thể gây ra khủng hoảng tâm lý, khiến trẻ khó tập trung vào học tập, đặc biệt là môn Toán với yêu cầu tư duy cao.

Nội dung Toán lớp 6 không chỉ đơn thuần là các phép tính cơ bản mà đòi hỏi học sinh phải tư duy logic hơn. Các bài toán lớp 6 thường phức tạp hơn, yêu cầu học sinh phải biết vận dụng nhiều kiến thức và kỹ năng để giải quyết vấn đề. Nếu không có nền tảng vững chắc, trẻ dễ rơi vào tình trạng mất gốc và không theo kịp chương trình.

Lớp 6 là thời điểm các em bắt đầu dậy thì, ảnh hưởng nhiều đến tâm lý và hành vi. Trẻ muốn thể hiện bản thân, có xu hướng phản kháng lại sự ép buộc của cha mẹ. Do đó, việc thúc ép học

Toán quá mức có thể phản tác dụng, khiến trẻ cảm thấy áp lực và chán nản.

Không nên quá đặt nặng thành tích

Mục tiêu chính khi dạy Toán là giúp con hiểu bản chất vấn đề và yêu thích môn học này, không phải chỉ để đạt điểm cao. Đừng quá tập trung vào thành tích mà hãy tạo cơ hội cho con học hỏi từ sai lầm, khuyến khích con tự tin hơn trong việc giải quyết các bài toán khó.

Giúp con học tốt môn Toán lớp 6 không chỉ là việc truyền đạt kiến thức mà còn là quá trình đồng hành và hỗ trợ tâm lý. Sự kiên nhẫn và định hướng đúng đắn của cha mẹ sẽ giúp trẻ từ mất gốc lấy lại kiến thức và phát triển tư duy. Hãy nhớ rằng, học Toán là một hành trình, và mỗi bước tiến nhỏ đều đáng được khích lệ.

Xem thêm: 4 chiến lược giúp con học giỏi Toán lớp 4

MỘT VÀI BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 4 GIẢI TỐT DẠNG TOÁN CÓ LỜI VĂN

Toán học có vị trí rất quan trọng phù hợp với cuộc sống thực tiễn. Đó cũng là công cụ cần thiết cho các môn học khác và để giúp học sinh nhận thức được thế giới xung quanh, hoạt động có hiệu quả trong thực tiễn.

Trong chương trình môn Toán tiểu học, giải toán có lời văn giữ một vai trò quan trọng. Thông qua việc giải toán, các em thấy được nhiều khái niệm toán học. Qua việc giải toán đã rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy, tính cẩn thận, óc sáng tạo, cách lập luận bài toán trước khi giải, giúp học sinh vận dụng các kiến thức, rèn luyện kĩ năng tính toán, kĩ năng ngôn ngữ. Đồng thời qua việc giải toán của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm, thiếu sót của các em về kiến thức, kĩ năng, tư duy để giúp học sinh phát huy những mặt đạt được và khắc phục những mặt thiếu sót.

Chính vì vậy, việc đổi mới  phương pháp dạy toán có lời văn ở cấp tiểu học nói chung và ở lớp 4 nói riêng là một việc rất cần thiết mà mỗi giáo viên tiểu học cần phải nâng cao chất lượng dạy học toán cho học sinh.

Việc dạy giải toán có lời văn là một bộ phận quan trọng trong chương trình toán tiểu học, là một công việc hàng ngày của GV và HS. Những bài toán được giải theo những yêu cầu riêng của đề bài, tạo điều kiện cho HS suy nghĩ để giải đúng. Thông qua việc dạy giải toán có lời văn sẽ giúp các em phát triển trí thông minh, óc sáng tạo và làm việc một cách khoa học. Bởi vì khi giải toán, HS phải biết tập trung chú ý vào bản chất của đề toán, phải biết gạn bỏ những cái thứ yếu, biết phân biệt cái đã cho và cái phải tìm, phải biết phân tích để tìm ra những đường dây liên hệ giữa các số liệu…. Nhờ đó mà đầu óc các em sáng suốt hơn, tinh tế hơn, tư duy của các em sẽ linh hoạt hơn, chính xác hơn. Cách suy nghĩ và làm việc của các em sẽ khoa học hơn. Việc giải toán còn đòi hỏi HS phải tự mình xem xét vấn đề, tự mình tìm tòi cách giải quyết vấn đề, tự mình thực hiện các phép tính và kiểm tra lại kết quả. Do đó giải các bài toán có lời văn là cách tốt nhất để rèn luyện đức tính kiên trì, tự lực vượt khó, cẩn thận chu đáo, tính chính xác cho HS. Khả năng giáo dục nhiều mặt của môn Toán rất to lớn, nó có khả năng phát triển tư duy lôgic, phát triển trí tuệ. Nó có vai trò to lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề có suy luận, có khoa học toàn diện, chính xác, có nhiều tác dụng phát triển trí thông minh, tư duy độc lập sáng tạo, linh hoạt..., góp phần giáo dục ý chí nhẫn nại, ý chí vượt khó của học sinh.

Vì những tác dụng to lớn nói trên mà mỗi HS đều phải ra sức rèn luyện để giải toán cho tốt. Điều đó không những  giúp các em học giỏi toán mà nó còn giúp các em học giỏi tất cả các môn học khác.

Qua thực tế giảng dạy nhiều năm ở khối lớp 4, tôi nhận thấy việc HS học toán và giải toán có lời văn đạt chất lượng chưa cao. HS còn lúng túng trong việc xác định và tóm tắt đề toán, đặt lời giải chưa sát với yêu cầu của đề…

Vì vậy tôi đã lựa chọn đề tài : MỘT VÀI BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 4 GIẢI TỐT DẠNG TOÁN CÓ LỜI VĂN để nghiên cứu và thực hiện trong năm học này.

* Đối tượng nghiên cứu : Học sinh lớp 4B Trường Tiểu học Số 1 Duy Vinh.

* Phạm vi nghiên cứu : Chương trình Toán lớp 4, trọng tập là hai dạng "Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó" và “Tìm hai số khi biết hiệu và tỉ số của hai số đó”

Trong hệ thống giáo dục có một bậc học được coi là nền móng đó là bậc Tiểu học. Tiểu học là cấp học nền tảng đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển nhân cách của con người, đặt nền móng vững chắc cho giáo dục phổ thông và cho toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân.

Trong việc giảng dạy các môn học theo quy định của Bộ GD & ĐT, môn học nào cũng quan trọng, nó có tác động và hỗ trợ lẫn nhau. Trong các môn học đó, môn Toán là một môn học có vị trí quan trọng. Đặc biệt là việc giải toán có lời văn, bởi lẽ giải các bài toán có lời văn sẽ có tác dụng to lớn và giáo dục toàn diện như : Củng cố, vận dụng và hiểu sâu sắc thêm tất cả các kiến thức về số học, đo lường, yếu tố đại số, các yếu tố hình học đã được học trong môn Toán tiểu học. Hơn thế nữa, phần lớn các biểu tượng, khái niệm, quy tắc, tính chất toán học ở tiểu học đều được học sinh tiếp thu qua con đường giải toán. Bởi vậy, việc giải các bài toán có lời văn ở tiểu học nói chung và ở lớp 4 nói riêng có một tầm quan trọng rất lớn.Qua kết quả học tập về giải toán có lời văn của học sinh từ những năm học trước, từ đầu năm học 2011–2012 , tôi đã chú ý tìm hiểu về khả năng giải toán có lời văn của học sinh, tôi nhận thấy còn không ít em học chưa tốt về dạng toán này. Từ những hạn chế tâm lí lứa tuổi, từ tình hình nhận thức của học sinh trong lớp, tôi luôn trăn trở tìm cách cải tiến phương pháp dạy bộ môn Toán.

Với lòng say mê tìm tòi học tập cộng với sự yêu thích môn Toán đã hướng tôi đến với đề tài này. Hơn nữa trong quá trình dạy học, tôi thấy phần giải toán có lời văn chiếm thời gian tương đối nhiều nhưng thực tế việc dạy và học giải toán có lời văn vẫn chưa đạt được kết quả cao. Một số học sinh còn chậm, nhút nhát, kĩ năng tóm tắt bài toán còn hạn chế, chưa có thói quen đọc và tìm hiểu kĩ bài toán, dẫn tới thường nhầm lẫn giữa các dạng toán, lựa chọn phép tính còn sai, chưa bám sát vào yêu cầu bài toán để tìm lời giải thích hợp với các phép tính. Kĩ năng tính nhẩm với các phép tính (hàng ngang) và kĩ năng thực hành diễn đạt bằng lời còn hạn chế. Một số em tiếp thu bài một cách thụ động, ghi nhớ bài còn máy móc nên còn chóng quên các dạng bài toán, vì thế phải có phương pháp khắc sâu kiến thức.

Đối với nhận thức của học sinh tiểu học nói chung, của lớp tôi nói riêng, đa số các em giải toán có lời văn còn yếu do nhiều nguyên nhân, trong đó vẫn là do các em thường vội vàng hấp tấp, đơn giản hoá vấn đề, đôi khi chưa hiểu rõ đề bài nên dẫn đến kết quả nhiều lúc bị sai, thiếu hoặc đúng nhưng chưa đầy đủ.

Bên cạnh đó, cũng còn một nguyên nhân quan trọng nữa là tâm lý lứa tuổi. Các em thích giống bài của bạn, không tin tưởng vào bài của chính mình nên dẫn đến những sai sót giống nhau. Thậm chí có khi  làm bài đúng rồi nhưng lại bỏ đi, chụp lại sao cho giống của bạn. Đây là do các em thiếu cơ sở lí luận, không tự tin vào khả năng của mình.

Trong những năm dạy học ở trường tiểu học, có một vấn đề khiến tôi phải trăn trở băn khoăn và suy nghĩ rất nhiều đó là làm thế nào khắc phục được tình trạng học sinh trong cùng một lớp nhưng trình độ nhận thức lại không đồng đều. Cùng một vấn đề do giáo viên đưa ra, có em nắm bắt rất nhanh, say sưa hứng thú bắt tay ngay vào việc tìm hiểu và giải quyết vấn đề nhưng cũng có em thì ngồi đó với tâm trạng hờ hững do không nắm được bản chất của vấn đề, sinh ra chán nản, hiệu quả giảm sút rất nhiều. Một số em rất lại hấp tấp, vội vàng, chưa nghiên cứu, chưa đọc kĩ đề bài đã vội đưa ra lời giải hoặc thích làm giống bạn vì sợ mình làm sai nên dẫn tới việc nhiều bài làm sai giống nhau. Đó là một thực tế mà người giáo viên đứng lớp ai cũng gặp phải, nhất là trong quá trình dạy giải toán có lời văn. Chính vì vậy mà tôi đã đi sâu vào tìm hiểu nghiên cứu để giải quyết vấn đề này nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, giúp các em có kĩ năng khi giải toán có lời văn.

a) Biện pháp 1 :  Khảo sát học sinh ngay từ đầu năm, phân loại đối tượng học sinh để có biện pháp rèn kĩ năng giải toán có văn cho học sinh.

Muốn học sinh giải toán có lời văn tốt, trước hết tôi tìm hiểu rõ tình trạng của học sinh mình như thế nào ? Học sinh yếu ở những mặt nào ? Mức độ yếu của học sinh ra sao ?

Do đó, ngay đầu năm học, tôi tiến hành điều tra, khảo sát, đàm thoại với các em. Tôi đã nhận thấy ngoài một số em làm bài tốt, vẫn còn có em viết lời văn chưa thành thạo, một số em giải toán nhưng không hiểu rõ bản chất của bài toán nên dẫn tới những sai sót rất đáng tiếc : Sai lời giải bài toán, làm sai phép tính nên dẫn tới kết quả, đáp số sai. Một số học sinh không kiểm tra lại bài giải dẫn đến lời giải phép tính đúng nhưng kết quả sai. Qua bài Khảo sát chất lượng đầu năm, tôi nhận thấy chất lượng của học sinh về giải toán có lời văn chưa cao.

Sau đây là kết quả khảo sát 22 học sinh trong lớp tôi chủ nhiệm về giải toán có lời văn :

Chọn và thực hiện đúng phép tính

Từ đầu năm học 2011–2012, qua một thời gian thực tế giảng dạy và qua khảo sát, tôi nhận thấy kết quả học tập của các em chưa cao.

- Nhận thức của HS chưa đồng đều.

- Việc xác định đề toán của các em chưa thành thạo.

- Một số em còn chủ quan, chưa đọc kĩ đầu bài.

- Việc giảng dạy của GV đôi khi chưa phát huy hết được tính tích cực, chủ động sáng tạo của các em.

- Trong quá trình tổ chức cho HS thực hành giải toán có những lúc chưa thật sự linh hoạt.

- Vốn Tiếng Việt của một số em còn hạn chế nên nhiều khi việc hiểu nghĩa của từ trong toán học đối với các em là rất khó, dẫn đến học sinh trả lời không chính xác.

- Một số phụ huynh không quan tâm đến việc học hành của con cái, phó thác cho giáo viên.

Đó là những nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng hướng dẫn HS giải các bài toán ở dạng toán có lời văn.

b) Biện pháp 2 : Nắm chắc nội dung chương trình môn toán lớp 4.

Môn Toán lớp 4 được Bộ GD & ĐT ban hành và quy định để thực hiện trong cả nước, mỗi  tuần 5 tiết x  35 tuần = 175 tiết. Chương trình giải toán có lời văn ở lớp 4 được chú trọng vào các dạng điển hình sau :

+ Tìm 2 số khi biết tổng và hiệu của 2 số đó.

+ Tìm 2 số khi biết tổng (hiệu) và tỉ số của 2 số đó.

+ Giải bài toán về đại lượng tỉ lệ, hình học.

Các dạng toán được bố trí đan xen với các bài toán về số học, vì thế tôi phải nắm chắc chương trình để nghiên cứu SGK, SGV, tài liệu tham khảo nhằm xây dựng kế hoạch bài dạy phù hợp với đối tượng HS để lên lớp đạt được hiệu quả cao.

c) Biện pháp 3 : Từ cơ sở trên, tôi đề ra hướng giải quyết vấn đề : Giúp học sinh hình thành kĩ năng, kĩ xảo, nắm được phương pháp chung về “giải toán có lời văn”.

Bước 1: Thường xuyên cho học sinh đọc đề bài nhiều lần trước khi làm bài, từ đó các em hình thành thói quen đọc kỹ đề bài trước khi giải. Trong quá trình giải, chữa bài tập toán ở nhà, vở bài tập in, khi giải toán có lời văn, tôi thường xuyên cho học sinh tóm tắt. Trước khi tóm tắt thường hướng dẫn cho các em có cách tóm tắt bài bằng hệ thống các câu hỏi gợi mở, giúp học sinh nhận biết dạng toán điển hình.

Tôi đưa ra hệ thống câu hỏi phù hợp, gợi mở cho học sinh đi ngược từ câu hỏi của bài toán trở lại điều kiện của đầu bài đã cho.

Từ hai bước trên, giúp học sinh hiểu kỹ đầu bài, từ đó học sinh định hướng, tư duy và tìm ra cách giải bài toán đó.

Sau khi giải xong, cho các em thử lại kết quả. Bước này giúp học sinh có cơ sở lí luận, tin tưởng vào cách làm bài của mình.

Đối với HS yếu, tôi làm kĩ 2 bước đầu để HS hiểu rõ bản chất của đề bài, có như vậy các em mới làm tốt được bài toán đã cho.

Đối với học sinh khá, giỏi nếu chúng ta chỉ dừng ở 4 bước trên thì mới chỉ giúp học sinh tìm được lời giải và đáp số của từng bài tập cụ thể mà chưa hề rèn luyện trí thông minh và óc sáng tạo cho học sinh. Do đó sau khi học sinh luyện tập  thành thạo 4 bước, tôi cho học sinh có thói quen làm tiếp một bước nữa đó là khai thác và phát triển bài toán : Đây chính là bước rèn luyện trí thông minh và óc sáng tạo của học sinh, bởi vậy sau khi học sinh giải xong bài toán và thử lại đúng kết quả, tôi hướng dẫn học sinh : cách giải khác và từ bài toán này có thể đặt ra các bài toán khác như thế nào ? Việc đi sâu vào tìm hiểu nhiều cách giải khác nhau có vai trò rất lớn trong việc rèn kĩ năng, củng cố kiến thức, phát triển trí thông minh và óc sáng tạo cho học sinh. Trong khi cố gắng tìm ra các cách giải khác nhau, học sinh hiểu sâu hơn về mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm. Học sinh sẽ lựa chọn được cách giải hay hơn và tích luỹ thêm được nhiều kinh nghiệm để giải toán. Biết tự đặt thêm bài toán mới là một biện pháp giúp học sinh nắm vững mối quan hệ giữa các đại lượng và những quan hệ bản chất trong mỗi bài toán. Từ đó mà học sinh hiểu bài sâu hơn rất nhiều.

Để hình thành cho học sinh có kĩ năng, kĩ xảo “giải toán  có lời văn” theo bốn bước trên, đòi hỏi người giáo viên phải thực hiện thường xuyên, liên tục.

d) Biện pháp 4 : Dạy tốt chương trình toán chính khoá - Hai dạng toán điển hình “Tìm hai số khi biết tổng (hiệu) và tỉ số của hai số đó”.

Dạng bài toán “Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó” được dạy trong 4 tiết, ngay sau tiết “Giới thiệu tỉ số”. Trong đó 1 tiết bài mới và 3 tiết luyện tập. Với một dạng toán “rộng” như thế mà được học trong 4 tiết thì thật là quá ít. Chính vì vậy mà tôi đã giúp học sinh nắm được các bước giải dạng toán này như sau :

Đầu tiên, tôi giúp học sinh nắm chắc khái niệm “Tỉ số”. Đây là khái niệm mới, trừu tượng mà lại phát biểu theo nhiều cách nói khác nhau.

Ví dụ :    Tỉ số của số bé và số lớn là

Chính vì vậy mà nhiều em khó nhận ra những cách nói trên là thể hiện tỉ số của hai số cần tìm nên dẫn đến giải sai bài toán.

* Dạng toán “Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó”

+ Bước 1 :  Vẽ sơ đồ minh họa bài toán

Học sinh biết dựa vào tỉ số của hai số để biết được mỗi số ứng với bao nhiêu phần, từ đó vẽ các đoạn thẳng biểu thị số lớn, số bé.

+ Bước 2 : Tìm tổng số phần bằng nhau

Lấy số phần của số bé cộng với số phần của số lớn.

+ Bước 3 : Tìm giá trị của một phần

Lấy tổng của hai số chia cho tổng số phần bằng nhau.

Lấy giá trị một phần nhân với số phần của số bé

Lấy giá trị một phần nhân với số phần của số lớn (hoặc lấy tổng hai số trừ đi số bé)

+ Bước 6 : Đáp số : Ghi cụ thể : Số bé ; Số lớn.

Lưu ý đối với học sinh : Có thể gộp bước 3 và bước 4 với nhau

Ở 3 tiết luyện tập tiếp theo, tiếp tục giúp học sinh rèn luyện, củng cố các bước giải dạng toán này.

Lớp 1A có 35 học sinh, trong số đó số học sinh nữ bằng  số học sinh nam. Hỏi lớp 1A có bao nhiêu học sinh nữ, bao nhiêu học sinh nam.

- Đọc kỹ đầu bài và tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng.

- Nhìn sơ đồ để tìm mối quan hệ giữa cái đã biết và cái chưa biết.

- Tìm phần tương ứng với 35 học sinh.

- Tìm số học sinh nam và số học sinh nữ.

Đáp số : 20 học sinh nam và 15 học sinh nữ.

Nếu học sinh không giải được như trên, tôi có thể giúp các em lập kế hoạch giải như sau :

- Muốn biết được số học sinh nam và số học sinh nữ ta phải biết được giá trị mấy phần trước ?

- Muốn tìm giá trị một phần ta làm thế nào ?

- Làm thế nào để tìm số học sinh nữ ?

- Làm thế nào để tìm số học sinh nam ?

- Cho biết tổng số học sinh là 35.

Tỷ số giữa học sinh nữ và nam là

- Tìm số học sinh nam và học sinh nữ.

- Lấy tổng số học sinh chia cho số phần.

- Lấy giá trị một phần nhân với số phần học sinh nữ.

- Lấy giá trị một phần nhân với số phần học sinh nam.

Sai lầm học sinh có thể mắc phải:

- Không biểu diễn được sơ đồ đoạn thẳng.

- Không tìm được tổng số phần bằng nhau.

- Khi tìm số lớn và số bé không nhân với số phần.

Các bài tập dạng “Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó” thì có rất nhiều và cũng rất đa dạng, phong phú. Vì thế phải dạy trong nhiều tiết mới có thể hướng dẫn học sinh giải được kiểu bài này. Trong quá trình dạy, tôi đã cố gắng đưa ra nhiều kiểu bài tập từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó. Có như thế mới phát huy được tính sáng tạo, năng lực tư duy cho học sinh.

Sau đây là một số bài tập tôi đã sử dụng phương pháp gợi mở hướng dẫn cho học sinh giải. Tôi xin trình bày cách hướng dẫn riêng của từng bài tập.

Sau mỗi buổi học, tiết học, tôi đưa ra một số bài tập cho học sinh tự luyện (có thể ở buổi chiều tăng tiết, ở nhà). Vì thế, hệ thống bài tập tự luyện tôi đưa ra phù hợp với đối tượng học sinh, nghĩa là vừa có kiểu tương tự đồng thời có sự sáng tạo.

Bài 1: Tổng của hai số là số lớn nhất có hai chữ số. Tỉ số của hai số là . Tìm hai số đó

- Số lớn nhất có hai chữ số là số nào ? (99)

- Vậy tổng của hai số cần tìm là bao nhiêu ? (99)

- Tỉ số cho ta biết điều gì ? (Số bé bằng số lớn, hay số bé được chia thành 4 phần bằng nhau thì số lớn có 5 phần như thế)

- Giải bài toán theo các bước đã học (hs tự giải)

Vì số lớn nhất có 2 chữ số là 99 nên tổng của hai số cần tìm là 99.

Theo sơ đồ, tổng số phần bằng nhau là

Bài 2: Một hình chữ nhật có chu vi là 120cm. Chiều rộng bằng chiều dài.Tính chiều dài, chiều rộng của hình đó.

- Khi đã biết chu vi của hình chữ nhật là 120 cm thì tìm tổng 2 cạnh chiều dài và chiều rộng như thế nào? (tính nửa chu vi: 120 : 2= 60cm)

- Đối với bài toán này, tổng của 2 số ẩn trong câu “Một hình chữ nhật có chu vi là 120 cm”. Vì vậy ta phải tính nửa chu vi, tức là tính tổng độ dài của 2 cạnh chiều dài và chiều rộng.

Chiều rộng là: 60 - 36 = 24 (cm)

Ví dụ: Tổng 2 số là 760. Tìm 2 số đó biết rằng  số thứ nhất bằng số thứ hai.

Nói  số thứ nhất bằng số thứ 2 thì có nghĩa là số thứ nhất được chia thành mấy phần ?

( Số thứ nhất được chia làm 3 phần , số thứ 2 được chia làm 5 phần như thế ).

Vậy tỉ số của số thứ nhất và thứ hai là bao nhiêu ? ( )

Bài toán này thuộc dạng gì ? ( Tìm 2 số khi biết tổng và tỉ số của 2 số đó)

Trong bài toán này, dữ kiện “tỉ số” bị “ẩn”, vì vậy ta cần lập luận để tìm ra tỉ số của 2 số.

Vì  số thứ nhất bằng số thứ 2 nên số thứ nhất ứng với 3 phần còn số thứ hai ứng với 5 phần. Vậy tỉ số của số thứ nhất và thứ 2 là . Ta có sơ đồ :

Theo sơ đồ tổng số phần bằng nhau là :

Số thứ nhất là : 760 : 8 x 3 = 285

Số thứ hai là : 760 – 285 = 475

* Dạng toán “Tìm hai số khi biết hiệu và tỉ số của hai số đó”

Đối với dạng toán này, tôi hướng dẫn các em nắm chắc các bước khi giải như sau :

+ Tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng.

+ Tìm hiệu số phần đoạn thẳng bằng nhau.

+ Tìm giá trị ứng với một phần đoạn thẳng.

Mẹ hơn con 28 tuổi. Tìm tuổi mỗi người, biết tuổi mẹ gấp năm lần tuổi con.

Đọc kỹ đầu bài và tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng.

Tìm mối quan hệ giữa cái đã biết và cái chưa biết dựa vào sơ đồ đoạn thẳng.

+ Tìm số phần tương ứng với 28 tuổi.

+ Tìm giá trị một phần (hay tuổi con)

Đáp số : Mẹ 35 tuổi ; Con 7 tuổi.

Bước 5: (dành cho HS khá giỏi) : Cho HS phát triển bài toán

VD: Mẹ hơn con 28 tuổi. Tìm tuổi mỗi người, biết 3 năm trước đây tuổi mẹ gấp 5 lần tuổi con.

Sai lầm học sinh có thể mắc phải:

- Không biểu thị được bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng, dẫn đến không tìm được hiệu số phần bằng nhau tương ứng với bao nhiêu.

- Hay nhầm lẫn giữa tổng số phần và hiệu số phần bằng nhau.

- Yêu cầu học sinh đọc kỹ đề bài.

- Tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng.

- Dựa vào sơ đồ đoạn thẳng để phân tích bài toán.

e) Biện pháp 5 : Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS.

Tôi luôn coi trọng việc kiểm tra đánh giá thường xuyên và định kì về kết quả học tập của HS để nắm bắt kịp thời việc vận dụng, rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho các em. Từ đó phân loại HS theo trình độ để tự điều chỉnh về mục tiêu đối với từng bài dạy cụ thể cho phù hợp với các nhóm đối tượng HS lớp tôi phụ trách. Bên cạnh công tác kiểm tra, đánh giá HS tôi tự điều chỉnh về hình thức tổ chức dạy học, điều chỉnh về phương pháp dạy học sao cho kết quả các tiết dạy đạt được mục tiêu đã đề ra. Tôi luôn quan tâm, giúp đỡ những em HS có kết quả học tập môn Toán nói chung và giải toán có lời văn đạt kết quả chưa cao nói riêng để các em có hướng vươn lên. Sau khi dạy xong mỗi dạng toán, tôi tự ra đề khảo sát chất lượng học sinh để kiểm tra xem các em tiếp thu kiến thức vừa học như thế nào ? Kết quả khảo sát của HS sau khi đã học xong hai dạng toán Tìm hai số khi biết tổng (hiệu) của hai số đó như sau :

Bài khảo sát ( Phụ lục 1 và phụ lục 2)

g) Biện pháp 6 :  Giúp học sinh nắm vững một số kiến thức cần ghi nhớ

Trước và trong khi dạy dạng toán “ Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó”,bằng hệ thống bài tập, tôi giúp học sinh nắm chắc một số kiến thức để áp dụng  khi giải bài tập. Cụ thể :

+ Trung bình cộng của hai số là 15 thì tổng của hai số là 15  2 = 30 (Tức là tổng của hai số bằng trung bình cộng của hai số nhân với 2)

+ Tổng hai cạnh chiều dài và chiều rộng thì bằng nửa chu vi hình chữ nhật đó.

+ Nếu tăng (hay giảm) số này a đơn vị và giảm (hay tăng) số kia a đơn vị thì tổng của hai số sẽ không đổi.

+ Nếu tăng (hay giảm) một trong hai số a đơn vị thì tổng của hai số sẽ tăng (hay giảm) a đơn vị.

+ Nếu cả hai số cùng tăng (hay cùng giảm) a đơn vị thì tổng của hai số sẽ tăng (hay giảm) a  2 đơn vị.

+ Nếu tăng (hay giảm) số này a đơn vị và giảm (hay tăng) số kia cũng a đơn vị thì tổng của hai số sẽ không thay đổi.

h) Biện pháp 7 : Tổ chức các trò chơi toán học

Tổ chức cho HS tham gia các trò chơi học tập kết hợp trong các tiết dạy. GV phải xác định rõ kiến thức và kĩ năng của trò chơi. Chuẩn bị chu đáo, hướng dẫn rõ ràng cách chơi, luật chơi, thực hiện đúng lúc với các trò chơi hợp lí, cân đối với các hoạt động của tiết dạy. Tổ chức các trò chơi trong toán học như : Tiếp sức, ai nhanh ai đúng, em làm giám khảo, ô số may mắn, ai thông minh hơn…

Thông qua việc tổ chức thành công các trò chơi, GV đã tạo không khí thoải mái, nhẹ nhàng, kích thích các hoạt động học tập của HS. Củng cố chắc chắn các kiến thức, kĩ năng cần đạt trong tiết dạy cho HS.

Ví dụ : Khi tôi muốn củng cố dạng toán “Tổng (hiệu) – tỉ” vừa học, tôi tổ chức cho các em chơi trò chơi “Ai nhanh, ai đúng”. Tôi đính bảng phụ có ghi bài toán : Tìm hai số, biết tổng của chúng là 60, số bé bằng  số lớn. HS viết nhanh kết quả vào bảng con. Em nào viết đúng, nhanh thì được tham gia chơi tiếp. Tôi cứ tiếp tục cho các em chơi cho đến khi chọn được em xuất sắc nhất nhận phần quà của cô giáo thưởng.

Ví dụ : Trò chơi “Em làm giám khảo”. Tôi đính bảng phụ có ghi sẵn nội dung bài tập và kèm theo một vài đáp án, sau đó tôi gọi 01 học sinh lên bảng chọn đáp án đúng cho bài toán. Các em dưới lớp dùng thẻ xanh, đỏ để chấm đúng, sai.(Nếu bạn làm đúng, các em đưa thẻ màu đỏ. Nếu bạn làm sai, các em đưa thẻ xanh.)

Sau một thời gian áp dụng nội dung và phương pháp mới cho dạng toán “Tìm hai số khi biết tổng (hiệu) và tỉ số của hai số đó”, tôi nhận thấy kết quả học tập của các em đã được nâng lên rõ rệt. Từ chỗ học sinh giải những bài toán đơn giản còn chưa thạo đến nay đa số các em đã giải được những bài tập nâng cao cùng dạng.

Kết quả cho thấy đa số các em đều có ý thức làm bài. Điều quan trọng là khả năng phân tích, tổng hợp, khả năng suy luận lôgíc của các em đã được nâng lên.

Chính vì nhờ phát triển những khả năng tư duy như thế nên các em giải các dạng toán khác cũng nhanh hơn, dễ dàng hơn.

Với sự chỉ đạo của nhà trường, sự cố gắng của bản thân, sau khi thực hiện các giải pháp như trên, lớp của tôi có được những kết quả đáng khích lệ. Tôi thấy áp dụng phương pháp này phù hợp với mục tiêu của giáo dục tiểu học, phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh. Mọi học sinh đều có tiến bộ, tự tin hơn trước. Chất lượng học tập được nâng lên một cách rõ rệt. Trong quá trình học toán, học sinh đã chiếm lĩnh được kiến thức rất tốt.

Trên đây chỉ là kết quả khiêm tốn nhưng cũng đủ để chứng minh được rằng : Khi học sinh đã có một số vốn kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo môn Toán, nắm được phương pháp giải các bài toán có lời văn, kết quả học tập của các em sẽ được nâng lên đáng kể.

Môn Toán ở lớp 4 trong chương trình tiểu học nói chung và giải toán có lời văn lớp 4 nói riêng có vai trò hết sức quan trọng trong việc góp phần thực hiện mục tiêu chung của giáo dục tiểu học. Kĩ năng giải toán có lời văn ngày càng được hoàn thiện cũng chính là góp phần cho việc phát triển văn hoá của đất nước.

Chính vì vai trò quan trọng đó mà việc giải toán có lời văn cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 4 nói riêng cần phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, có hệ thống trong suốt từng năm học, bậc học.

Qua kết quả thực nghiệm và thực tế giảng dạy dạng toán có lời văn “ Tìm hai số khi biết tổng (hiệu) và tỉ số của hai số” tôi nhận thấy rằng để tiết dạy có kết quả tốt cần thực hiện tốt các giải pháp sau :

- Giáo viên phải tìm và thống kê các sai lầm của học sinh thường mắc phải khi học về giải toán có lời văn.

- Áp dụng các phương pháp giảng dạy khoa học, phù hợp, giúp các em khắc phục những sai lầm thường mắc phải khi học phần toán có lời văn dạng tỉ số.

- Củng cố khái niệm, quy tắc : so sánh, cộng, trừ, nhân, chia. Tăng cường luyện tập tạo thành kĩ năng trong giải toán cho học sinh, nhất là những học sinh yếu kém môn Toán.

- Phải giúp học sinh nắm vững các bước giải của hai dạng toán này.

- Giúp học sinh tìm hiểu kĩ đề bài : đọc đề nhiều lần, xác định dạng toán, lập luận để tìm ra dữ kiện bị ẩn, vẽ sơ đồ,...

- Khi dạy dạng toán này, tôi cần giúp HS nắm được những kiến thức có liên quan đến các khái niệm “tổng”, “hiệu”, “tỉ số”, những kiến thức liên quan đến sự thay đổi “tổng”, thay đổi ‘tỉ số” bằng một số bài tập.

- Những bài tập ra cho HS giải phải có hệ thống, tức là những bài tập đó được nâng cao, mở rộng dần từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ quen đến lạ,... Bài tập sau phải dựa trên cơ sở của bài tập trước. Có như thế HS mới phát huy được tính sáng tạo, bồi dưỡng được năng lực, tư duy cho các em.

- Thường xuyên mở các chuyên đề về dạy toán đặc biệt là chuyên đề dạy giải toán có lời văn ở tất cả các khối lớp để giáo viên được đi dự giờ, tham khảo, học hỏi kinh nghiệm.

Tăng cường tổ chức các chuyên đề giảng dạy theo các cụm trường để giáo viên có dịp giao lưu học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.

Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân tôi về việc nâng cao chất lượng hướng dẫn học sinh thực hành giải toán có lời văn cho HS lớp 4 mà tôi đã thực hiện trong năm qua, xin được chia sẻ cùng đồng nghiệp. Rất mong sự góp ý của Hội đồng NCKH các cấp để đề tài sáng kiến kinh nghiệm của tôi hoàn hảo hơn.

a) Phụ lục 1 : Bài khảo sát chất lượng học sinh về dạng toán : Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó

b) Phụ lục 2 : Bài khảo sát chất lượng học sinh về dạng toán : Tìm hai số khi biết hiệu và tỉ số của hai số đó

1. Tạp chí giáo dục tiểu học số 4 – 1999 về dạy giải toán có lời văn – Đặng Tự Ân

2. Tạp chí giáo dục tiểu học – PGS – PTS Đỗ Trung Hiệu

3. Các bài toán lý thú ở tiểu học - Tác giả : Trương Công Thành (Nhà xuất bản giáo dục)

4. Trình bày lời giải trong giải toán ở tiểu học – PTS Kiều Đức Thành

5. Giải bài toán tiểu học như thế nào - Tác giả: Phạm Đình Thục (Nhà xuất bản giáo dục)

6. Sách giáo khoa - Sách giáo viên Toán 4

Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 giải toán

Chương trình toán của tiểu học có vị trí và vai trò rất lớn.Toán học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh.Trên cơ sở cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về số học, các số tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản, giải toán có lời văn, ứng dụng thiết thực trong đời sống hằng ngày.

Môn toán ở tiểu học bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừu tượng hóa, khái quát hóa, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán, phát triển hợp lí khả năng suy luận và biết diễn đạt đúng bằng lời các suy luận đơn giản, góp phần rèn luyện phương pháp học tập và làm việc khoa học, linh hoạt sáng tạo.

Môn toán có tầm quan trọng vì toán học với tư cách là một bộ môn khoa học nghiên cứu hệ thống kiến thức cơ bản và sự nhận thức cần thiết trong đời sống sinh hoạt, lao động của con người. Môn toán là “chìa khóa” mở cửa cho tất cả các ngành khoa học khác, nó là công cụ cần thiết của người lao động trong thời đại mới.Vì vậy, môn toán là môn học không thể thiếu được trong nhà trường, nó giúp con người phát triển toàn diện, nó góp phần giáo dục tình cảm, trách nhiệm của các thế hệ học sinh đối với quê hương, đất nước.

Trong chương trình toán ở tiểu học, có thể nói lớp 4 là giai đoạn đột phá lớn đối với học sinh về kiến thức. Nhiều em học sinh học rất tốt ở các lớp 1,2,3 nhưng khi bước vào lớp 4, các em có thể bị choáng ngợp trước những luồng kiến thức phức tạp. Ở giai đoạn các lớp 1,2,3 các em học sinh chỉ được học những kiến thức, những kĩ năng cơ bản nhất về điểm, đọc, viết, so sánh số tự nhiên, đo lường, nhận biết các hình vẽ đơn giản, giải toán có đề văn ở mức độ thấp. Nhưng khi lên lớp 4, nội dung môn toán được nâng lên một bậc cao hơn, sâu sắc hơn như: Tìm số trung bình cộng, tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó, tìm hai số khi biết tổng (hoặc hiệu)và tỉ của hai số đó ….Vì vậy, làm thế nào để học sinh hiểu được thông suốt các vấn đề này là một quá trình phấn đấu, nổ lực không ngừng của cả giáo viên và học sinh. Trong môn toán ở bậc tiểu học nói chung và môn toán ở lớp 4 nói riêng, các bài toán có lời văn có một vị trí vô cùng quan trọng bởi vì:

-Việc giải toán giúp học sinh cũng cố, vận dụng và hiểu sâu sắc thêm tất cả các kiến thức về số học, về đo lường. Về các yếu tố đại số, về các yếu tố hình học đã được học trong môn toán ở tiểu học.

– Thông qua nội dung thực tế nhiều hình nhiều vẻ của các đề toán, học sinh sẽ tiếp nhận những kiến thức phong phú về cuộc sống và có điều kiện để rèn luyện khả năng áp dụng những kiến thức toán học vào cuộc sống. Khi giải mỗi bài toán, học sinh biết rút ra được bản chất toán học của mỗi dạng bài, biết lựa chọn những phép tính thích hợp, biết làm đúng các phép tính đó, biết đặt lời giải chính xác …Vì thế, quá trình giải toán sẽ giúp học sinh rèn luyện khả năng quan sát và giải quyết các hiện tượng của cuộc sống qua khả năng toán học của mình.

– Việc giải các bài toán sẽ giúp phát triển trí thông minh, óc sáng tạo và thói quen

làm việc một cách khoa học cho học sinh. Bởi vì, khi giải toán học sinh phải biết tập trung vào bản chất của đề toán, phải biết gạt bỏ những cái thứ yếu, phải biết phân biệt cái đã cho và cái phải tìm, phải biết phân tích tìm ra đường dây liên hệ giữa các số liệu…Nhờ đó mà đầu óc của các em sẽ sáng suốt hơn, tinh tế hơn, tư duy của các em sẽ linh hoạt, chính xác hơn, cách suy nghĩ và làm việc của các em sẽ khoa học hơn.

– Việc giải các bài toán còn đòi hỏi học sinh phải biết tự mình xem xét vấn đề, tự mình tìm tòi cách giải quyết vấn đề, tự mình thực hiện các phép tính, tự mình kiểm tra lại kết quả…Do đó giải toán là cách rất tốt để rèn luyện đức tính kiên trì, tự lực vượt khó, cẩn thận, chu đáo, yêu thích sự chặt chẽ, chính xác.

Là một giáo viên giảng dạy nhiều năm ở lớp 4, bản thân tôi không ngừng đổi mới phương pháp dạy học. Tôi luôn băn khoăn, suy nghĩ, tìm ra những bước đi phù hợp nhằm giúp học sinh mình giải được các bài toán có lời văn. Bên cạnh đó, căn cứ vào thực trạng của học sinh ở toàn trường ….. nói chung và học sinh ở lớp 4B3, lớp 4B2  trường tiểu học ….. nói riêng.

Từ  những vấn đề trên, bản thân tôi đã tìm tòi, nghiên cứu, áp dụng trong quá trình giảng dạy để từ đó rút ra được một số kinh nghiệm giúp học sinh làm tốt các dạng toán có lời văn ở tiểu học và đặc biệt là ở lớp 4 .

I.2/ Mục tiêu , nhiệm vụ của đề tài :

Đề tài đưa ra một số kinh nghiệm và giải pháp để giúp học sinh giải tốt một số dạng toán có lời văn trong chương trình toán lớp 4 đồng thời chỉ ra một số thói quen thường gặp trong cách dạy của một số giáo viên và cách học của một số học sinh. Qua đó, rút kinh nghiệm và hạn chế những  vấn đề chưa phù hợp giúp học sinh luyện tập, củng cố, vận dụng các kiến thức toán học và rèn luyện kĩ năng thực hành vào thực tiễn, góp phần đưa kết quả học tập của học sinh đạt kết quả tốt nhằm nâng cao chất lượng đại trà đặc biệt là nâng cao chất lượng mũi nhọn cho học sinh.

Các dạng toán có lời văn trong phạm vi chương trình môn toán lớp 4 và các biện pháp, giải pháp để giúp học sinh làm tốt các bài toán có lời văn ở tiểu học nói chung và chương trình lớp 4 nói riêng .

I.4/ Giới hạn phạm vi nghiên cứu :

Học sinh lớp 4B3 và học sinh lớp 4B2 trường tiểu học ….. huyện

Dùng phương pháp điều tra, phương pháp đối chứng, phương pháp thực nghiệm, phương pháp đọc sách và nghiên cứu tài liệu…

– Căn cứ vào vai trò quan trọng của giáo dục đối với công cuộc xây dựng bảo vệ đất nước, đối với sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước trong thời kì đổi mới .

– Căn cứ vào vai trò quan trọng của bậc tiểu học, đặc biệt ở lớp 4 và việc giải toán có lời văn lại càng quan trọng vì việc giải toán có lời văn sẽ giúp các em phát triển trí thông minh, óc sáng tạo và thói quen làm việc một cách khoa học cho học sinh. Bởi vì

khi giải toán học sinh phải biết tập trung vào bản chất của đề toán, phải biết gạt bỏ

những cái thứ yếu, phải biết phân biệt cái đã cho và cái phải tìm, phải biết phân tích  tìm ra đường dây liên hệ giữa các số liệu…Nhờ đó mà đầu óc của các em sẽ sáng suốt

hơn, tinh tế hơn, tư duy của các em sẽ linh hoạt, chính xác hơn,cách suy nghĩ và làm việc của các em sẽ khoa học hơn.

– Việc giải các bài toán còn đòi hỏi học sinh phải biết tự mình xem xét vấn đề, tự mình tìm tòi cách giải quyết vấn đề, tự mình thực hiện các phép tính, tự mình kiểm tra lại kết quả…Do đó giải toán là cách rất tốt để rèn luyện đức tính kiên trì, tự lực vượt khó, cẩn thận, chu đáo, chặt chẽ, chính xác.

– Căn cứ vào thực trạng của học sinh ở toàn trường nói chung và học sinh ở lớp 4B3, lớp 4B2  trường tiểu học ….. mà bản thân được trực tiếp phân công giảng dạy trong 2 năm gần đây.

– Căn cứ vào nhiệm vụ năm học và không ngừng đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm.

– Được sự quan tâm chỉ đạo kịp thời của lãnh đạo phòng giáo dục, Ban lãnh đạo nhà trường cùng với tổ khối chuyên môn nên bản thân tôi nắm bắt kịp thời mọi kế hoạch nhiệm vụ của năm học, nắm bắt kịp thời các công văn hướng dẫn thực hiện việc đổi mới nội dung và phương pháp dạy học.

– Được sự quan tâm sâu sắc, đúng mực của một số phụ huynh học sinh nên việc học tập của các em cũng được quan tâm đôn đốc kịp thời và dành một quỷ thời gian hợp lí cho việc học tập của các em.

– Cơ sở vật chất trang thiết bị dạy học đầy đủ.

– Do học sinh được tổ chức học 2 buổi / ngày nên có điều kiện để luyện tập củng cố thêm kiến thức cho học sinh cũng như mở rộng nâng cao kiến thức cho các em.

– Do địa bàn cư trú của học sinh trãi rộng hầu hết ở tất cả các thôn, đặc biệt có những thôn rất xa trường như thôn Lộc An, Lộc Dũng xã …..; thôn Hòa Bình của xã Ea Hồ nên việc đi lại của các em còn gặp rất nhiều khó khăn cũng như việc tiếp cận của giáo viên với gia đình phụ huynh học sinh còn nhiều hạn chế .

– Còn một số bộ phận phụ huynh học sinh vì mãi lo công việc, lo cuộc sống nên chưa quan tâm đến việc học của con em mình không kiểm tra đôn đốc các em học bài ở nhà , không mua sắm các đồ dùng học tập đầy đủ, không dành thời gian thích đáng cho các em học tập .

– Còn một số học sinh chưa ý thức học tập và kiến thức trang bị ở các lớp trước bị hổng  những kiến thức cơ bản các em vẫn chưa nắm được, vốn ngôn ngữ của các em còn nghèo, chậm tiến bộ .

a/ Mục tiêu của giải pháp , biện pháp :

– Nhằm khắc phục những vấn đề còn hạn chế trong phương pháp, giúp học sinh giải tốt các dạng toán có lời văn trong chương trình môn toán lớp 4 đặc biệt là những dạng toán như : Tìm trung bình cộng của các số, tìm hai số khi biết tổng và hiệu; tìm hai số khi biết tổng và tỉ của hai số đó; tìm hai số khi biết hiệu và tỉ của hai số đó.

– Giúp học sinh lĩnh hội kiến thức toán học một cách tự nhiên, nhẹ nhàng và chủ động. Tạo không khí thoải mái, say mê ham thích học môn toán.

– Cung cấp thêm một số kinh nghiệm, giải pháp góp phần nâng cao chất lượng dạy và học. Đặc biệt là năng cao chất lượng mũi nhọn và góp phần năng cao chất lượng đại trà.

– Rèn luyện đức tính kiên trì,tự lực vượt khó,cẩn thận,chu đáo, chặt chẽ, chính xác.

– Giúp học sinh luyện tập, củng cố, vận dụng các kiến thức toán học và rèn luyện kĩ năng thực hành vào thực tiễn.

b/ Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:

* Để kiến thức cơ bản về các phép tính của các em ngày càng vững chắc, theo tôi có những giải pháp biện pháp sau:

– Thường xuyên kiểm tra các bản tính cộng, trừ,  nhân,  chia

– Thường xuyên gọi học sinh làm các phép tính cộng trừ nhân chia và bắt buộc tất cả học sinh điều phải làm được thành thạo.

– Trong những tiết luyện tập hoặc các bài kiểm tra bao giờ cũng có các phép tính đặt tính rồi tính, chúng ta phải xem kiến thức cơ bản này là tiêu chí thấp nhất mà bất cứ em nào cũng phải đạt được.

* Để vốn ngôn ngữ của các em ngày càng phong phú hơn chúng ta phải hướng các em đọc sách báo thật nhiều và thường xuyên phát biểu ý kiến trước đông người, trong

các môn học tập đọc, tập làm văn, luyện từ và câu… giáo viên dành thời gian hợp lí để các em mở rộng trao đổi vốn từ. Trong giờ học toán, khi phân tích đề toán giáo viên cần phân tích thật kĩ các thuật ngữ toán học thường gặp trong các dạng toán có lời văn mà các em thường làm. Cho các em thảo luận nhóm để phân tích đề toán thật kĩ trước khi giải .

*Để giúp học sinh xác định các bước giải một bài toán có lời văn, theo tôi thông thường có các bước sau đây:

Bước 1: Học sinh đọc kĩ đề toán, gạch chân những từ ngữ quan trọng bỏ bớt những từ ngữ thứ yếu không quan trọng để bài toán ngắn gọn hơn.

Bước 2: Học sinh thảo luận phân tích đề bài và tìm ra hướng giải bài toán .

Bước 3: Học sinh tóm tắt đề toán.

Bước 4: Học sinh giải bài toán bằng những phép tính .

Bước 5: Học sinh kiểm tra lại kết quả tìm được của bài toán xem có phù hợp với các dữ liệu của bài toán hay không? Tìm xem còn có cách giải nào khác, hay hơn cách mình đang giải.

Trong các bước đó giáo viên cho học sinh thấy tầm quan trọng của bước phân tích đề toán và bước kiểm tra lại kết quả của bài toán so với các điều kiện đã cho của bài toán, tạo thói quen cho học sinh bao giờ làm xong cũng phải kiểm tra lại toàn bộ bài toán như lời giải đã đúng và chặt chẽ chưa, phép tính làm đúng chưa, đơn vị ghi đã hợp lí chưa, kết quả phù hợp với đề bài hay chưa?…

Phải tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học, phải kế thừa tiếp thu có chọn lọc một số phương pháp dạy học truyền thống, phải phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh, những giải pháp biện pháp được thể hiện qua từng dạng bài cụ thể như sau:

Bài 1 : một cửa hàng ngày đầu bán được 125 m vải, ngày thứ hai bán được nhiều hơn ngày đầu 27 m, ngày thứ ba bán được bằng ½ ngày đầu. Hỏi trung bình mỗi ngày cửa hàng bán được bao nhiêu mét vải ?

Đây là dạng toán tìm trung bình cộng rất cơ bản giáo viên hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu phân tích đề thật kĩ .

Học sinh đọc đề bài nhiều lần sau đó gạch chân những từ quan trọng, bỏ bớt những từ thứ yếu không quan trọng .

Ngày đầu bán 125 m, ngày thứ hai bán hơn 27 m, ngày thứ ba bằng ½ ngày thứ hai .Trung bình mỗi ngày ?

Cho học sinh thảo luận tìm ra hướng giải bài toán . Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích đề bằng sơ đồ như sau :

Giáo viên kết hợp dùng phương pháp đàm thoại, phương pháp vấn đáp. Bằng hệ thống câu hỏi gợi mở, giáo viên hướng dẫn học sinh từng bước tìm hiểu phân tích đề bài các dữ liệu bài toán, mối liên hệ giữa các dữ liệu của bài toán. Từ đó, giúp học sinh phân tích đề toán bằng sơ đồ tư duy. Có thể học sinh dùng bút chì, màu đễ vẽ sơ đồ phân tích, bước đầu học sinh chưa quen nên giáo viên cần động viên khuyến khích các em.

Học sinh có thể vẽ sơ đồ phân tích theo cách khác miễn sao học sinh nắm được bài . Ví dụ các em có thể vẽ sơ đồ phân tích như sau:

(vẽ theo chiều thuận học sinh dễ vẽ hơn)

Hoặc : Học sinh chưa nắm được cách vẽ sơ đồ phân tích tuy các em đã hiểu được bài thì giáo viên nên đễ các em tự ý vẽ sơ đồ theo ý tưởng của mình. Các em có thể vẽ bằng bút màu hoặc tô màu theo ý thích, đây cũng là yếu tố tạo ra không khí học tập  nhẹ nhàng và hứng thú say mê thích học toán cho học sinh hơn. Các em có thể vẽ sơ đồ như sau  tuy chưa thật đảm bảo tính khoa học

Ngày thứ hai bán được số vải là :

Ngày thứ ba bán được số vải là :

Trung bình mỗi ngày bán được số vải là :

Hướng dẫn học sinh kiểm tra lại toàn bộ bài làm và kết quả tìm được so với các dữ kiện bài toán có phù hợp không ?

Bài 2: Một mảnh đất hình chữ nhật có chu vi 120m, chiều dài dài hơn chiều rộng 10 m. Tính diện tích mảnh đất ?

Đây là bài toán tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó. Giáo viên cho học sinh đọc kĩ đề bài nhiều lần sau đó thảo luận phân tích đề và tìm phương pháp giải bài toán. Học sinh đọc và gạch chân những chữ quan trọng của bài toán.

Một mảnh đất hình chữ nhật có chu vi 120m , chiều dài dài hơn chiều rộng 10 m. Tính diện tích mảnh đất ?

Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích đề toán có thể như sau :

Có thể học sinh phân tích đề theo sơ đồ đơn giản hơn, giáo viên nên động viên khuyến khích các em để tạo thói quen tư duy bằng sơ đồ

Giáo viên hướng dẫn học sinh tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng

Nữa chu vi mảnh đất là : 120 : 2 = 60 (m)

Chiều rộng mảnh đất là 🙁 60 -10 ) : 2 = 25( m)

Chiều rộng mảnh đất là : 25 +10 = 35 (m)

Diện tích mảnh đất là :    35 x 25 = 875( m2)

Bài 3 : Tìm hai số khi biết trung bình cộng của nó bằng 35 và 3 lần số này bằng 4 lần số kia.

Khi gặp dạng toán này , đây là dạng toán ẩn tổng . Giáo viên cho học sinh đọc kĩ đề bài rồi thảo luận để tìm hiểu các mối liên quan trong của bài toán từ đó tìm ra hướng giải bài toán. Giáo viên dùng hệ thống câu hỏi gợi mở giúp đỡ học sinh.

Học sinh đọc đề , gạch chân những từ quan trọng của bài toán.

Trung bình cộng của nó bằng 35,  3 lần số này bằng 4 lần số kia.Tìm hai số đó           Hướng dẫn học sinh phân tích đề bằng sơ đồ tư duy , có thể học sinh vẽ sơ đồ như sau    giáo viên vẫn khuyến khích động viên các em miễn sao các em nắm được cách giải và hăng say thích học toán hơn .

Bước 1: Tìm tổng của hai số khi biết trung bình cộng của hai số đó ta làm cách nào ?

Ta lấy trung bình cộng nhân nhân với số các số hạng (lấy 35 x 2 = 70 )

Bước 2 : Khi phân tích mối liên hệ về tỉ số một số giáo viên và hầu hết học sinh không hiểu được đề nên khi vẽ sơ đồ thường mắc phải sai lầm như sau :

Vẽ sơ đồ biểu thị như trên là không đúng.Vì không phải số lớn chia thành 3 phân, số bé chia thành 4 phần hơn nữa vẽ như vậy thì không thể giải được bài toán

Một số khác giáo viên và học sinh vẽ sơ đồ biểu thị bài toán như sau :

Khi vẽ sơ đồ như thế này thì biểu thị đúng giá trị của 2 số nhưng các phần không bằng nhau nên không thể tính tổng số phần và không thể giải bài toán. Do vậy khi phân tích đề toán giáo viên cần giúp học sinh hiểu kĩ đề bằng cách hướng dẫn học sinh như sau: Nếu ta chia số lớn thành 4 phần thì 3 lần số lớn có tất cả 12 phần, nếu ta chia số bé thành 3 phần thì 4 lần số bé có tất cả 12 phần và lúc này 12 phần số lớn bằng 12 phần số bé .

Bài 4: An và Bình có 33 viên bi. Biết rằng 1/3 số bi của An thì bằng 2/5 số bi của Bình. Hỏi mỗi bạn có bao nhiêu viên bi ?

Đối với dạng toán này là dạng toán tìm 2 số khi biết tổng và tỉ nhưng bị ẩn tỉ. Giáo viên cũng như học sinh khó hiểu cụm từ 1/3 số bi của An bằng 2/5 số bi của Bình và một số học sinh tóm tắt bài toán bằng sơ đồ như sau:

Nhìn vào sơ đồ chúng ta thấy số phần không bằng nhau nên học sinh không thể tính tổng số phần của số bi 2 bạn nên giáo viên cần hướng dẫn học sinh có thể chia số bi của An thành những phần nhỏ hơn sau cho tất cả những phần số bi của An và Bình đều bằng nhau. Nếu như vậy thì số bi của An sẽ được chia thành 6 phần còn số bi của Bình được chia thành 5 phần

Hoặc  giáo viên cần hướng dẫn học sinh so sánh 2 phân số trước khi vẽ sơ đồ .

Ta có : 1/3 và 2/ 5 = 2/6 và 2/ 5 . Như vậy số bi của An được chia ra 6 phần thì số bi của Bình được chia thanh 5 phần do tử số bằng nhau

Đáp số : An 18 viên , Bình 13 viên

Học sinh có thể tìm số bi của bạn Bình bằng cách khác

Bài 5:Một hình chữ nhật có chu vi là 96cm. Nếu bớt chiều dài 7cm, thêm chiều rộng 7cm thì hình chữ nhật đó trở thành hình vuông. Tính chiều dài, chiều rộng của hình chữ nhật đó.

Đây là dạng toán tìm 2 số khi biết tổng và hiệu của 2 số đó nhưng tổng và hiệu điều bị ẩn nên giáo viên cho học sinh đọc kĩ đề bài nhiều lần sau đó học sinh thảo luận để tìm ra cách giải .

Giáo viên dùng phương pháp tính ngược từ cuối thể hiện qua sơ đồ phân tích  như sau:

Khi thêm chiều rộng 7cm, bớt chiều dài 7cm thì nữa chu vi không thay đổi. Do đó chu vi cũng không thay đổi. Vậy chu vi hình vuông là 96cm

Bốn cạnh của một hình vuông bằng nhau.Vì vậy chiều dài hơn chiều rộng là:                                                7 + 7 = 14 (cm) vậy hiệu của 2 cạnh của hình chữ nhật là 14, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm thêm tổng của 2 cạnh HCN bằng cách lấy chu vi chia cho 2 ta có sơ đồ phân tích như sau :

Bài 6:Có hai thùng đựng tất cả 398 l nước mắm. Nếu lấy bớt đi 50 l ở thùng thứ nhất đổ sang thùng thứ hai thì thùng thứ hai sẽ đựng nhiều hơn thùng thứ nhất 16 l . Tính xem mỗi thùng lúc đầu chứa bao nhiêu lít?

Đây là dạng toán tìm 2 số khi biết tổng và hiệu của hai số đó nhưng hiệu bị ẩn và chúng ta cần phải tìm trước khi giải bài toán .

Giáo viên cho học sinh đọc kĩ đề toán nhiều lần rồi cho học sinh thảo luận để tìm ra phương pháp giải . Trước khi lấy 50 lít ở thùng thứ nhất để đổ sang thùng thứ hai thì thùng thứ hai giảm đi 50 lít và thùng thứ nhất lại tăng 50 lít . Như vậy thùng thứ nhất tạm hơn thùng thứ hai 100 lít, theo đề bài sau khi đổ thêm vào thùng thứ hai thì thùng thứ hai hơn thùng thứ nhất 16 lít có nghĩa là trước khi đỗ 50 lít ở thùng thứ nhất sang thùng thứ hai thì thùng thứ nhất hơn thùng thứ hai 100 – 16 = 84 lít .

Giáo viên hướng dẫn học sinh tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng .

Số nước mắm thùng thứ hai đựng được là ;

Số nước mắm thùng thứ nhất đựng được là:

Đáp số : Thùng thứ nhất 241 lít

Giáo viên hướng dẫn học sinh làm xong phải thử lại xem kết quả có phù hợp với các dữ kiện bài toán hay không .

Thùng thứ nhất 241 sau khi bớt 50 lít sang thung thứ hai thì thùng thứ nhất còn lại 191lit, thùng thứ hai sau khi thêm 50 lít của thùng thứ nhất thì thùng thứ hai có 398 -191 = 207

Bài 7:Cho phân số  29/99. Hãy tìm một số sao cho khi đem tử số và mấu số của phân số đã cho cộng với số đó ta được phân số tối giản 1/3.

Phân tích: Đây là dạng toán tìm 2 số khi biết hiệu và tỉ số của 2 số đó nhưng dạng toán này rất trìu tượng và rất hay. Do đó, giáo viên cần cho học sinh đọc kĩ đề toán rồi cùng nhau thảo luận dưới sự giúp đỡ hướng dẫn của giáo viên. Ta thấy mẫu số hơn tử số 70 (99-29=70) . Lúc này mẫu số là số bị trừ, tử số là số trừ . Mà khi thêm vào số bị trừ và số trừ một số đơn vị như nhau thì hiệu số không thay đổi. Như vậy, sau khi thêm, mẫu số vẫn hơn tử số 70 đơn vị. Lúc này, phân số mới có tử số là 1, mẫu số là 3. Như thế ,  ta có sơ đồ phân tích như sau :

Bài toán trở về bài toán: Tìm hai số khi khi biết hiệu số và tỉ số của chúng

Khi cùng thêm vào tử số, mẫu số một đơn vị như nhau thì mẫu số vẫn hơn tử số 70 đơn vị(xem sơ đồ)

70 bằng mấy lần của tử số mới ?

Cùng chia tử số và mẫu số cho 35 ta được phân số 1/3 vì (35:35)/(105:35)=1/3

Bài 8:Cho phân số 19/89. Hãy tìm một số sao cho đem số đó cộng với tử số và đem mẫu số trừ đi số đó, ta được phân số mới bằng phân số tối giản 2/7

Phân tích: Dạng toán này cũng tương tự như dạng toán trên nhưng bài này thuộc dạng tìm hai số khi biết  tổng và tỉ của hai số đó. Do đó giáo viên cần cho học sinh đọc kĩ đề toán rồi cùng nhau thảo luận dưới sự giúp đỡ hướng dẫn của giáo viên .   Ta thấy tổng tử số và mẫu số của phân số đã cho là 108 (19+89=108). Mà khi thêm vào tử số và bớt đi mẫu số một số như nhau thì tổng của tử số và mẫu số vẫn không thay đổi nên vẫn là 108:

Bài toán trở về bài toán tìm hai số khi biết tổng số và tỉ số của hai số đó.

Giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ đoạn thẳng :…..

Khi thêm vào tử số bao nhiêu đơn vị và bớt ở mẫu số bao nhiêu đơn vị thì tổng của tử số và mẫu số vẫn không thay đổi nên vẫn là 108(Vẽ như sơ đồ trên)

108 chia thành mấy phần bằng nhau ?

Đem tử số và mẫu số phân số mới cùng chia cho 12 ta được phân số 2/7 vì:

Bài 9:Cho phân số 63/89. Hãy tìm một số sao cho đem tử số trừ đi số đó, đem mẫu cộng với số đó ta được phân số mới bằng phân số tối giản 3/5

Phân tích:Ta thấy tổng tử số và mẫu số là 152 (63+89=152) mà khi bớt ở tử số bao nhiêu đơn vị, thêm vào mẫu số bấy nhiêu đơn vị thì tổng của tử số và mẫu số vẫn không thay đổi nên vẫn là 152.

Tử số mới là 3, mẫu số mới là 5. Từ đó ta có sơ đồ:

Bài toán trở thành bài toán Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của chúng

Tổng của tử số và mẫu số của phân số đã cho là:

Khi bớt tử số bao nhiêu đơn vị,thêm vào mẫu số bấy nhiêu đơn vị thì tổng của tử số và mẫu số vẫn không thay đổi nên vẫn là 152 (Vẽ sơ đồ như trên)

152 chia thành mấy phần bằng nhau ?

Đem tử số và mẫu số của phân số mới cùng chia cho 19 ta được phân số 3/5 vì:

Bài 10 : Hiện nay tuổi của hai anh em công lại được 35 tuổi , cách đây 5 năm anh hơn em 5 tuổi.Tính tuổi hiện nay của mổi người ?

Đây là dạng toán cơ bản của dạng toán tính tuổi , bài toán này thuộc dạng toán tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó. Giáo viên cho học sinh đọc kĩ đề bài rồi sau đó thảo luận để tìm ra hướng giải bài toán. Cách đây 5 năm năm anh hơn em 5 tuổi thì hiện nay và mãi sau này anh cũng chỉ hơn em 5 tuổi vì cứ sau một năm anh tăng một tuổi thì em cũng được tăng một tuổi. Ta có sơ đồ phân tích như sau :

Bài 11:Tổng số tuổi của hai anh em là 25.Nếu bớt đi tuổi anh 3 tuổi ,thêm vào tuổi em 2 tuổi thì tuổi hai anh em bằng nhau.Tính tuổi mỗi người

Đây là dạng toán tính tuổi trìu tượng hơn ở mức độ khó hơn .Giáo viên cần cho học sinh đọc kĩ đề toán rồi thảo luận phân tích đề bài và tìm ra hướng giải bài toán

Nếu bớt anh 3 tuổi và thêm cho em 2 tuổi thì tuổi hai anh em bằng nhau vậy trước khi chưa bớt tuổi anh và chưa thêm tuổi cho em thì tuổi anh hơn em 3+2 = 5 (tuổi)

Bài 12 :Trung bình cộng của 2 số là 46. Nếu viết thêm chữ số 4 vào bên phải số thứ nhất thì được số thứ hai.Hãy tìm hai số đó.

Đây là dạng toán tìm 2 số khi biết tổng và tỉ nhưng dạng toán naỳ bị ẩn tổng và ẩn cả tỉ số của 2 số đó. Do vậy, đối với dạng toán này khá trìu tượng với học sinh cho nên giáo viên cho học sinh đọc kĩ đề toán nhiều lần sau đó cho học sinh thảo luận để tìm ra hướng giải.

Học sinh đọc kĩ đề nhiều lần sau đó gạch chân những từ quan trọng của bài toán .

Trung bình cộng của 2 số là 46,   viết thêm chữ số 4 vào bên phải số thứ nhất thì được số thứ hai.Hãy tìm hai số đó.

Muốn tìm được 2 số ta phải biết tổng và tỉ của 2 số đó . Do khi thêm số 4 vào bên phải số bé thì ta được số lớn có nghĩa là số lớn bằng 10 lần số bé cộng thêm 4. Để số lớn bằng 10 lần số bé thì số lớn phải bớt đi 4 , do vậy nên tổng cũng giảm đi 4. Ta có sơ đồ như sau:

Giáo viên hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng

Tổng của 2 số là : 46 x2 – 4 = 88

Hoặc học sinh có thể tìm số lớn bằng cách khác

Giáo viên hướng dẫn học sinh kiểm tra lại kết quả của bài toán. Số đó là số 8 , thêm 4 bên phải số 8 ta được 84 ; 84 +4 =88 đúng theo đề bài.

Bài 13 : Tổng của 2 số chẳn liên tiếp bằng 98 . Tìm 2 số đó ?

Bài toán này thuộc dạng tìm 2 số khi biết tổng và hiệu của hai số đó nhưng hiệu bị ẩn . Trong hai số chẳn hoặc hai số lẻ liên tiếp thì chúng hơn kém nhau bao nhiêu đơn vị ? Giáo viên cho học sinh thảo luận sau đó gọi học sinh nêu ví dụ minh họa chứng tỏ hai số chẳn  liên tiếp thì hơn kém nhau 2 đơn vị

Học sinh có thể tìm số lớn bằng cách lấy tổng trừ đi số bé hoặc cách khác

Bài 14:Tổng của hai số chẵn là 38.Hãy tìm hai số đó biết rằng giữa chúng có ba số lẽ.

Đây là bài toán tổng hiệu nhưng tính trìu tượng của nó cao hơn  so với bài toán trên Hai số chẳn mà ở giữa có 3 số lẻ thì 2 số chẳn đó hơn kém nhau bao nhiêu đơn vị ? Giáo viên cho học sinh thảo luận rồi nêu ví dụ càng nhiều càng tốt  đễ chứng tỏ rằng hai số chẵn mà giữa chúng có 3 số lẻ thì hơn kém nhau  2 x 3= 6 đơn vị .

c/ Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp :

Các giải pháp, biện pháp mà đề tài nêu ra thực hiện được ở tất cả mọi điều kiện giảng dạy. Tuy nhiên, nếu thực hiện ở những lớp dạy hai buổi / ngày và có đối tượng học sinh khá giỏi nhiều thì kết quả sẽ cao hơn và việc thực hiện các giải pháp sẽ thuận lợi hơn.

Trong thời gian đầu thực hiện các biện pháp, giải pháp này giáo viên cần lưu ý phân bố thời gian sao cho hợp lí tránh quá lạm dụng ảnh hưởng đến thời lượng của những tiết học khác .

Các giải pháp sẽ thực hiện dễ dàng và hiệu quả hơn nếu được sự quan tâm sâu sắc của Ban giám hiệu nhà trường, bộ phận chuyên môn và toàn thể tập thể phụ huynh học sinh mình đang trực tiếp giảng dạy.

d/ Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp :

Các giải pháp có mối quan hệ chặt chẻ với nhau, các giải pháp biện pháp phải tiến hành đồng bộ, phải đảm bảo tính khoa học, tính vừa sức và tính liên tục…

e/ Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu

Sau khi sử dụng các giải pháp, biện pháp được nêu trong đề tài để dạy 1 tiết ở lớp 4B3 bài Tìm hai số khi biết tổng và hiệu và bản thân tôi trực tiếp dạy 1 tiết ở lớp 4B2 bài luyện tập tìm hai số khi biết tổng và hiệu nhưng không dùng các giải pháp biện pháp được nêu trong đề tài và thu được kết quả ở hai lớp như sau:

rất nhiều nhưng kết quả tiến bộ của lớp 4B3 cao hơn rất nhiều nhờ có sử dụng các giải pháp biện pháp nêu trong đề tài. Qua đó, thấy được tính khả thi của các giải pháp biện pháp rất cao.

II.4/ Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:

Qua một thời gian hơn một học kì, bản thân tôi trực tiếp vận dụng các giải pháp biện pháp nêu trong đề tài để giảng dạy lớp 4B3 và bước đầu thu được những kết quả đáng khích lệ như sau:

Hầu hết tất cả các em đều hăng say học tập và có thái độ thích học môn toán đặc biệt là giải toán có lời văn

Tất cả những kiến thức mà các em lĩnh hội được thì các em nắm rất chắc và rất chủ động, từ đó các em vận dụng để giải toán rất sáng tạo và linh hoạt.

Tạo được thói quen phân tích đề và kiểm tra kết quả tìm được, bước đầu biết và thích vẽ sơ đồ phân tích các dữ liệu bài toán .

Được đông đảo tập thể phụ huynh học sinh đồng tình tin tưởng và ủng hộ.

Kết quả học tập môn toán nói chung và việc giải toán có lời văn nói riêng bước đầu có những tiến bộ đáng khích lệ cụ thể như sau:

Mỗi chúng ta, khi đứng lên bục giảng, ai cũng luôn mong muốn cho mình một phương pháp dạy tốt nhất để mang lại chất lượng dạy học cao nhất. Đặc biệt, tôi rất thích nghiên cứu về môn toán với đối tượng là học sinh giỏi hoặc khá giỏi. Cho nên, trong giới hạn phạm vi nhỏ bé của đề tài bản thân tôi chỉ nêu được những giải pháp biện pháp nhằm giúp học sinh hăng say học tập và có thái độ thích học môn toán đặc biệt là giải toán có lời văn. Tạo được thói quen phân tích đề và kiểm tra kết quả tìm được, bước đầu biết và thích vẽ sơ đồ phân tích các dữ liệu bài toán. Việc giải toán

giúp học sinh cũng cố, vận dụng và hiểu sâu sắc thêm tất cả các kiến thức về số học về đo lường, về các yếu tố đại số, về các yếu tố hình học đã được học trong môn toán

ở tiểu học góp phần nâng cao chất lượng dạy và học đặc biệt là nâng cao chất lượng mũi nhọn. Trong thời gian tới, tôi tiếp tục nghiên cứu các giải pháp biện pháp còn lại để đáp ứng đầy đủ hiệu quả hơn nữa cho tất cả các dạng toán có lời văn còn lại ở chương trình tiểu học nói chung và chương trình toán có lời văn ở lớp 5 nói riêng.

Dạy toán, học toán ở trường Tiểu học là một phạm trù rộng lớn đặc biệt là giải toán có lời văn. Nó chứa đựng một chuỗi hệ thống các quan điểm, phương pháp và kĩ thuật dạy học. Vì thế, bản thân luôn xác định đổi mới phương pháp dạy học toán ở bậc  tiếu học không hề đơn giản và cũng không thể thực hiện nhanh chóng trong ngày một ngày hai. Vì thế, khi nghiên cứu đề tài này, thực sự bản thân tôi không có tham vọng tạo chuyển biến có tính chất đột phá trong việc dạy, việc học môn toán ở trường tiểu học mà chỉ hi vọng góp một phần nhỏ tháo gỡ một vài khía cạnh để góp phần nâng cao chất lượng dạy học toán tại trường TH …… Tuy nhiên, do ràng buộc hạn chế về kinh nghiệm, sự thiếu hụt về mặt thời gian và tầm nhìn, tôi biết chắc đề tài vẫn còn chứa đựng quá nhiều khiếm khuyết. Vì vậy, rất mong được sự quan tâm tham gia bàn bạc của quý cấp quản lí và các đồng nghiệp. Bản thân tôi xin chân thành biết ơn sâu sắc.

– Tất cả các giáo viên giảng dạy ở tiểu học phải sử dụng các PPDH linh hoạt, phù hợp với lớp, với từng học sinh.

– Nhiệt tình trong giảng dạy, đảm bảo đầy đủ ĐDDH, thiết bị dạy học.

-Tổ chuyên môn  cần thường xuyên tổ chức hội thảo các chuyên đề về đổi mới phương pháp, đố vui để học, thi học tốt môn toán.

– Có kế hoạch bồi dưỡng và phụ đạo học sinh về môn toán.

* Đối với nhà trường và các cấp:

– Tăng cường tài liệu nghiên cứu, sách tham khảo cho giáo viên.

– Tổ chức thi học sinh giỏi qua nhiều hình thức không chỉ có hội thi rung chuông vàng hay đố vui để học mà chúng ta có thể tổ chức hằng tuần , hằng tháng . Ví dụ như  sáng thứ hai hằng tuần bộ phận chuyên môn hoặc cá nhân nào đó có năng lực được phân công nhiệm vụ sẽ ra vài bài toán để tất cả học sinh đều có điều kiện tham gia giải. Sau một tuần , chúng ta chấm những bài làm nào xuất sắc nhất hay nhất thì trao thưởng . Phần thưởng có thể là cây bút hay cuốn vở nhưng vẫn đem lại niềm hăng say học toán, thi đua học toán cho học sinh toàn trường .

– Cần thường xuyên mở chuyên đề, tổ chức thao giảng, bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên.

* Đối với phụ huynh và hội phụ huynh

– Quan tâm đến việc học tập của con em, thường xuyên kiểm tra sách vở, đốc thúc, quản lí việc học ở nhà.

– Chú ý đến học sinh nghèo, khuyết tật, cần mở quỹ khuyến học giúp đỡ, khen thưởng kịp thời.

Trên đây là một số kinh nghiệm mà bản thân tôi nhận thấy, mong quí cấp lãnh đạo, quý thầy cô giáo và tất cả đồng chí đồng nghiệp góp ý, bổ sung thêm để những giải pháp, biện pháp trong đề tài của tôi được tốt hơn, tôi xin chân thành biết ơn

01.Sách giáo khoa toán lớp 4 của NXBGD

02.Sách Toán nâng cao lớp 4 của tác giả Vũ Dương Thụy – Nguyễn Danh Ninh NXB GD

03.Đổi mới phương pháp dạy học và tổ chức lớp học của NXB ĐHQG Hà Nội do Nguyễn Huyền Trang chủ biên

04.Sách Sư phạm học Tiểu học của NXBGD do Nguyễn Đình Chinh- Nguyễn Văn Lũy- Phạm Ngọc Uyên biên soạn

05.Toán nâng cao tiểu học 5 của NXB Đại học sư phạm do Đỗ Trung Hiệu- Vũ văn Dương – Đỗ Tiến Đạt –Đỗ Trung Kiên biên soạn

06.Tuyển chọn các bài toán hay và khó lớp 5 của NXB Tổng hợp thành phố do Phạm Thị Minh Tâm biên soạn