Hình thức chung của hoạt động triển khai Email Marketing là xây dựng một nội dung email và “chuyển phát” đi cho hàng ngàn khách hàng thông qua ngân hàng địa chỉ email. Tuy nhiên, nếu bạn là người nhận email và thừa biết rằng email đó giống hệt như hàng triệu email khác, liệu bạn có cảm thấy hứng thú để mở nó không? Để làm cho từng email trở nên hấp dẫn hơn, doanh nghiệp cần phải tạo ra nội dung phù hợp với từng người nhận, khiến họ cảm thấy email đó chứa đựng những nội dung chỉ dành riêng cho mình.
Hình thức chung của hoạt động triển khai Email Marketing là xây dựng một nội dung email và “chuyển phát” đi cho hàng ngàn khách hàng thông qua ngân hàng địa chỉ email. Tuy nhiên, nếu bạn là người nhận email và thừa biết rằng email đó giống hệt như hàng triệu email khác, liệu bạn có cảm thấy hứng thú để mở nó không? Để làm cho từng email trở nên hấp dẫn hơn, doanh nghiệp cần phải tạo ra nội dung phù hợp với từng người nhận, khiến họ cảm thấy email đó chứa đựng những nội dung chỉ dành riêng cho mình.
Có một sự thật là, không ai không muốn được nhớ đến. Lợi dụng lý lẽ hiển nhiên này, cá nhân hóa ra đời, giúp doanh nghiệp tìm được một chân lý mới giữa thị trường mà khách hàng là nhà cầm quyền.
Về bản chất, cá nhân hóa liên quan đến việc nhận diện và đáp ứng những nhu cầu và sở thích riêng biệt của từng khách hàng. Đây là một chiến lược nhằm biến những tương tác đồng loạt trên tệp khách hàng lớn thành những tương tác riêng biệt giữa thương hiệu với từng khách hàng, từ đó tạo cho khách hàng cảm giác được quan tâm và chăm sóc đặc biệt. Bằng cách phân tích các dữ liệu về nhân khẩu học, lịch sử mua sắm, hoạt động trên mạng xã hội, doanh nghiệp có thể điều chỉnh để cung cấp các sản phẩm, dịch vụ và nội dung thật sự phù hợp với từng cá nhân.
Nghiên cứu của McKinsey cho thấy 71% người tiêu dùng mong đợi các thương hiệu mang đến những tương tác cá nhân hóa. Và hơn thế, 76% khách hàng tỏ ra thất vọng khi thiếu đi yếu tố các nhân hóa trong trải nghiệm. Kỳ vọng của khách hàng dành cho cá nhân hóa có thể phân chia thành 3 mức độ:
Chủ động và kỳ vọng: Khách hàng mong đợi rằng dịch vụ hoặc sản phẩm sẽ được cá nhân hóa dựa trên thông tin mà họ đã cung cấp trước đó như họ tên, ngày sinh, số điện thoại, địa chỉ email,… Doanh nghiệp nên tận dụng những dữ liệu này để tạo ra trải nghiệm phù hợp và có giá trị như: gọi tên riêng khi giao tiếp, lời chúc sinh nhật,…
Không chủ động nhưng kỳ vọng: Khách hàng kỳ vọng doanh nghiệp sẽ tự động cá nhân hóa sản phẩm – dịch vụ dựa trên hành vi và lịch sử hoạt động của họ. Đây là những thông tin khách hàng sẽ không chủ động cung cấp. Vì thế, doanh nghiệp cần phải sử dụng công nghệ và kỹ thuật phân tích để hiểu và dự đoán nhu cầu của khách hàng nhằm mang đến trải nghiệm phù hợp mà không cần thông tin chi tiết. Một số hình thức cá nhân hóa tiêu biểu cho cấp độ này là đề xuất sản phẩm, đề xuất nội dung, voucher cá nhân,…
Không chủ động và không kỳ vọng: đây là cấp độ kỳ vọng cao nhất và khó đáp ứng nhất. Chỉ có những thương hiệu thật sự tinh tế mới có khả năng phát hiện được các nhu cầu cực ngách mà ngay cả khách hàng còn không thể tự nhận biết. Ví dụ, thay vì ra mắt BTS mới một cách thông thường, thương hiệu có thể giới thiệu sản phẩm đến khách hàng bằng cách đề xuất ý tưởng mix-match giữa 1 trong những sản phẩm của BST mới với sản phẩm mà khách hàng đã mua trước đó.
Cá nhân hóa không chỉ giúp thu hút khách hàng và đẩy nhanh tốc độ bán hàng, mà còn xây dựng tình yêu thương hiệu (Brand Love) từ phía khách hàng. Thực tế, khách hàng sẵn sàng trả thêm chi phí để được trải nghiệm sản phẩm hoặc dịch vụ cá nhân hóa.
Nếu cảm thấy được thấu hiểu và trân trọng, khách hàng sẽ muốn duy trì mối quan hệ lâu dài với thương hiệu. Khi đó, họ không tìm đến bạn chỉ vì sản phẩm vượt trội mà còn vì bạn là thương hiệu duy nhất hiểu và đối xử với họ theo cách họ mong muốn. Hơn nữa, khi khách hàng yêu thích thương hiệu, họ có xu hướng “vô tình quảng bá” thông qua việc chia sẻ trải nghiệm tích cực với bạn bè và người thân.
Giữa thị trường mà người tiêu dùng dường như bị khủng bố bởi quá nhiều lựa chọn, cá nhân hóa trở thành một yếu tố khác biệt giúp doanh nghiệp trở nên nổi bật hơn. Hầu hết những doanh nghiệp ứng dụng cá nhân hóa thành công đều có khả năng cung cấp những trải nghiệm khác biệt so với những đối thủ cạnh tranh chỉ “bán” sản phẩm – dịch vụ một cách đơn thuần.
Những giá trị mà khách hàng nhận được từ cá nhân hóa tạo nên sự độc đáo và độc nhất của thương hiệu nên khó bị sao chép, đạo nhái. Đây chính là yếu tố then chốt nhất giúp doanh nghiệp củng cố vị thế vững chắc trên thị trường và trong lòng người tiêu dùng.
Cá nhân hóa không chỉ là một chiến thuật tiếp thị mà là một cách tiếp cận toàn diện có thể thấm nhuần vào mọi khía cạnh từ phát triển sản phẩm đến dịch vụ khách hàng, khiến nó trở thành một trợ thủ đắc lực cho bất kỳ doanh nghiệp nào. Công nghệ phát triển, như sự xuất hiện của AI, tạo ra môi trường thuận lợi để doanh nghiệp có thể đưa chiến lược cá nhân hóa vào hoạt động. Doanh nghiệp cần phải tiếp cận cá nhân hóa với tư duy lấy khách hàng làm trung tâm và đảm bảo rằng các hoạt động phải phù hợp với sở thích của khách hàng.
Xem thêm Chương trình học Thạc sĩ Kinh doanh PSO MBA để không bỏ qua những nội dung chuyên sâu liên quan đến Kiến thức quản lý, Kỹ năng lãnh đạo, Tư duy chiến lược & Ứng dụng công nghệ!
Thuốc Amoksiklav được chỉ định để điều trị các nhiễm khuẩn sau đây ở người lớn và trẻ em:
Viêm xoang do vi khuẩn cấp tính (đã được chẩn đoán xác định).
Đợt cấp của viêm phế quản mạn tính (đã được chẩn đoán xác định).
Viêm phổi mắc phải trong cộng đồng.
Nhiễm khuẩn da và mô mềm, đặc biệt là viêm mô tế bào, vết cắn của động vật, áp xe răng nặng có viêm mô tế bào lan tỏa.
Nhiễm khuẩn xương và khớp, đặc biệt là viêm tủy xương.
Nên xem xét hướng dẫn chính thức về việc sử dụng các thuốc kháng khuẩn thích hợp.
Nhóm dược lý trị liệu: Thuốc kháng khuẩn nhóm beta-lactam; phối hợp kháng sinh penicillin với chất ức chế beta-lactamase.
Amoxicillin là một Penicillin bán tổng hợp (kháng sinh nhóm beta-lactam), ức chế một hoặc nhiều enzyme (thường được gọi là các protein gắn penicillin - PBP) trong đường sinh tổng hợp peptidoglycan của vi khuẩn - là một thành phần cấu trúc không thể thiếu của thành tế bào vi khuẩn. Sự ức chế tổng hợp peptidoglycan dẫn đến làm yếu thành tế bào, điều này thường được theo sau bởi sự ly giải tế bào và chết tế bào.
Amoxicillin dễ bị thoái biến bởi beta-lactamase được tạo ra do các vi khuẩn đề kháng, vì vậy phổ hoạt tính của Amoxicillin đơn độc không bao gồm những sinh vật sản xuất các enzyme này.
Acid clavulanic là một beta-lactam có cấu trúc liên quan về cấu trúc với cấu trúc của Penicillin. Nó làm bất hoạt một số enzym beta-lactamase, do đó ngăn ngừa sự mất hoạt tính của Amoxicillin. Acid clavulanic đơn độc không tạo ra tác dụng kháng khuẩn hữu ích trên lâm sàng.
Mối quan hệ Dược động học/Dược lực học (PK/PD): Thời gian trên nồng độ ức chế tối thiểu (T>MIC) được cho là yếu tố quyết định chính về hiệu quả của Amoxicillin.
Hai cơ chế chính của sự đề kháng đối với Amoxicillin/Acid clavulanic là:
Bất hoạt do các beta-lactamase của vi khuẩn mà bản thân chúng không bị ức chế bởi acid clavulanic, bao gồm các nhóm B, C và D.
Biến đổi của protein gắn Penicillin (PBP) làm giảm ái lực của thuốc kháng khuẩn đối với mục tiêu.
Tính không thấm của vi khuẩn hoặc cơ chế bơm thuốc ra có thể dẫn đến hoặc góp phần vào tính đề kháng của vi khuẩn, đặc biệt đối với các vi khuẩn gram âm.
Các nồng độ ngưỡng ức chế tối thiểu đối với Amoxicillin/Acid clavulanic theo Thử nghiệm của ủy ban Châu âu về tính nhạy cảm kháng khuẩn (EUCAST).
Nồng độ ngưỡng nhạy cảm (µg/ml)
Staphylococci2 âm tính với coagulase
Nồng độ ngưỡng không liên quan đến loài1
1 Các giá trị ghi nhận được là cho nồng độ Amoxicillin, đối với mục đích thử nghiệm tính nhạy cảm, nồng độ acid clavulanic được cố định ở 2 mg/l.
2 Các giá trị ghi nhận được là cho nồng độ Oxacillin.
3 Giá trị nồng độ ngưỡng trong bảng được dựa vào giá trị nồng độ ngưỡng của Ampicillin.
4 Nồng độ ngưỡng đề kháng R > 8mg/l đảm bảo rằng tất cả các phân lập với các cơ chế kháng thuốc được báo cáo đề kháng.
5 Các giá trị nồng độ ngưỡng trong bảng là dựa trên nồng độ ngưỡng của Benzylpenicillin.
Sự đề kháng kháng sinh có thể thay đổi theo từng vùng địa lý và thời gian đối với các loài vi khuẩn chọn lọc và thông tin về sự đề kháng ở địa phương là cần thiết, đặc biệt khi điều trị các bệnh nhiễm trùng nặng.
Khi cần thiết nên hỏi ý kiến chuyên gia về thông tin đề kháng kháng sinh ở địa phương khi có nghi ngờ về tính hữu dụng của kháng sinh trong vài trường hợp nhiễm trùng.
Vi khuẩn hiếu khí gram dương: Enterococcus faecalis, Gardnerella vaginalis, Staphylococcus aureus (nhạy cảm - methicillin)£ , âm tính-coagulase staphylococci (nhạy cảm methicillin)£, Streptococcus agalactiae, Streptococcus pneumoniae1, Streptococcus pyogenes và các beta-haemolytic streptococci, nhóm Streptococcus viridans.
Vi khuẩn kỵ khí gram âm: Capnocytophaga spp., Eikenella corrodens, Haemophilus influenzae2, Moraxella catarrhalis, Pasteurella multocida.
Vi khuẩn kỵ khí: Bacteroides fragilis, Fusobacterium nucleatum, Prevotella spp.
Các loài có sự đề kháng có thể gây rắc rối
Vi khuẩn hiếu khí Gram dương: Enterococcus faecium$.
Vi khuẩn hiếu khí Gram âm: Escherichia coli, Klebsiella oxytoca, Klebsiella pneumoniae, Proteus mirabilis, Proteus vulgaris.
Vi khuẩn hiếu khí gram âm: Acinetobacter sp., Citrobacter freundii, Enterobacter sp., Legionella pneumophila, Morganella morganii, Providencia spp., Pseudomonas sp., Serratia sp., Stenotrophomonas maltophilia.
Các vi khuẩn khác: Chlamydophila pneumoniae, Chlamydophila psittaci, Coxiella burnetti, Mycoplasma pneumoniae.
$ Nhạy cảm trung gian tự nhiên trong trường hợp không có cơ chế kháng.
£ Tất cả các staphylococci kháng methicillin đều kháng Amoxicillin/Clavulanic acid.
1 Streptococcus pneumoniae nhạy cảm hoàn toàn với penicillin có thể được điều trị bằng Amoxicillin/Clavulanic acid như đã trình bày. Những vi khuẩn cho thấy giảm nhạy cảm với Penicillin không nên được điều trị như đã trình bày.
2 Các chủng giảm nhạy cảm đã được báo cáo ở một vài nước ở EU với tần suất cao hơn 10%.
Amoxicillin và Acid clavulanic phân ly hoàn toàn trong dung dịch nước ở pH sinh lý. Cả hai thành phần này được hấp thu nhanh và tốt bằng đường uống.
Amoxicillin/Acid clavulanic được hấp thu tối ưu khi uống vào đầu bữa ăn. Sau khi dùng đường uống, Amoxicillin và Acid clavulanic có sinh khả dụng khoảng 70%. Dữ liệu về huyết tương của cả hai thành phần tương tự nhau và thời gian đạt đến nồng độ đỉnh trong huyết tương (Tmax) trong mỗi trường hợp khoảng 1 giờ.
Các kết quả dược động học đối với một nghiên cứu trong đó Amoxicillin/Acid clavulanic (viên nén 875mg/125mg dùng 2 lần/ngày) được dùng lúc đói trên những nhóm người tình nguyện khỏe mạnh được trình bày dưới đây.
Nồng độ trong huyết thanh của Amoxicillin và Acid clavulanic đạt được với Amoxicillin/Acid clavulanic giống với nồng độ đạt được khi sử dụng các liều tương đương Amoxicillin hoặc Acid clavulanic đơn độc bằng đường uống.
Khoảng 25% tổng lượng Acid clavulanic trong huyết tương và 18% tong lượng Amoxicillin trong huyết tương gắn kết với protein. Thể tích phân bố biểu kiến khoảng 0.3 - 0.4lít/kg đối với Amoxicillin và khoảng 0.2lít/kg đối với Acid clavulanic.
Sau khi dùng đường tĩnh mạch, cả Amoxicillin và Acid clavulanic được tìm thấy trong túi mật, mô ổ bụng, da, mỡ, mô cơ, dịch hoạt dịch, dịch màng bụng, mật và mủ. Amoxicillin không phân bố thích đáng đầy đủ vào dịch não tủy.
Những nghiên cứu từ động vật cho thấy không có bằng chứng của sự giữ lại trong mô chất dẫn xuất từ thuốc có ý nghĩa thống kê đối với mỗi thành phần.
Amoxicillin, giống như hầu hết các Penicillin, có thể tìm thấy trong sữa mẹ. Các lượng vết Acid clavulanic cũng có thể phát hiện trong sữa mẹ.
Cả Amoxicillin và Acid clavulanic đã được chứng minh là qua được hàng rào nhau thai.
Amoxicillin được thải trừ một phần qua nước tiểu dưới dạng acid penicilloic không có hoạt tính với số lượng tương đương với 10 - 25% của liều ban đầu. Acid clavulanic được chuyển hóa mạnh ở người và được đào thải qua nước tiểu và phân dưới dạng carbon dioxide không khí thở ra.
Đường bài tiết chính đối với Amoxicillin là qua thận, trong khi Acid clavulanic bài tiết chính do các cơ chế qua thận và không qua thận.
Amoxicillin/Acid clavulanic có thời gian bán thải trung bình khoảng một giờ và độ thanh thải toàn phần trung bình khoảng 25 lít/giờ ở những người khỏe mạnh. Khoảng 60 - 70% lượng Amoxicillin và 40 - 65% lượng Acid clavulanic được bài tiết dưới dạng không đổi qua nước tiểu trong 6 giờ đầu sau khi dùng liều đơn viên nén Amoxicillin/Clavulanic 250mg/125mg hoặc 500mg/125mg.
Những nghiên cứu khác nhau đã ghi nhận sự bài tiết qua nước tiểu là 50 - 85% đối với Amoxicillin và trong khoảng 27 - 60% đối với Acid clavulanic sau một khoảng thời gian 24 giờ. Trong trường hợp Acid clavulanic, lượng thuốc lớn nhất được bài tiết trong 2 giờ đầu sau khi dùng thuốc.
Sử dụng đồng thời với probenecid làm chậm sự thải trừ Amoxicillin nhưng không làm chậm sự thải trừ Acid clavulanic qua thận.
Thời gian bán thải của Amoxicillin giống nhau đối với trẻ khoảng 3 tháng đến 2 tuổi, trẻ lớn hơn và người lớn. Đối với trẻ rất nhỏ (bao gồm cả trẻ sinh non) trong tuần đầu tiên của cuộc đời, khoảng cách dùng thuốc không nên vượt quá 2 lần/ngày do đường bài tiết qua thận còn non yếu. Vì những bệnh nhân lớn tuổi có nhiều khả năng bị suy giảm chức năng thận, cần thận trọng khi chọn liều và sự theo dõi chức năng thận có thể hữu ích.
Sau khi dùng Amoxicillin/Acid clavulanic đường uống cho các đối tượng nam và nữ khỏe mạnh, giới tính không ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê về các thông số dược động học của Amoxicillin hoặc Acid clavulanic.
Độ thanh thải Amoxicillin/Acid clavulanic toàn phần trong huyết thanh giảm tỷ lệ với giảm chức năng thận. Sự giảm độ thanh thải của thuốc rõ rệt hơn đối với Amoxicillin so với Acid clavulanic, vì tỷ lệ Amoxicillin cao hơn được bài tiết qua đường thận. Vì vậy liều dùng trong suy thận phải ngăn ngừa được sự tích lũy Amoxicillin quá mức trong khi vẫn duy trì nồng độ Acid clavulanic đầy đủ.
Những bệnh nhân bị suy gan nên thận trọng về liều dùng và theo dõi chức năng gan ở những khoảng cách đều đặn.