Giấy Chứng Nhận Xuất Khẩu Gạo

Giấy Chứng Nhận Xuất Khẩu Gạo

Giấy chứng nhận kinh doanh xuất khẩu gạo là chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận cơ sở, tổ chức đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo. Tuy nhiên, không phải chủ thể nào cũng có những hiểu biết nhất định về giấy chứng nhận kinh doanh xuất khẩu gạo. Thông qua bài viết này, NPLaw xin gửi đến Quý độc giả nội dung pháp lý về giấy chứng nhận kinh doanh xuất khẩu gạo.

Giấy chứng nhận kinh doanh xuất khẩu gạo là chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận cơ sở, tổ chức đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo. Tuy nhiên, không phải chủ thể nào cũng có những hiểu biết nhất định về giấy chứng nhận kinh doanh xuất khẩu gạo. Thông qua bài viết này, NPLaw xin gửi đến Quý độc giả nội dung pháp lý về giấy chứng nhận kinh doanh xuất khẩu gạo.

Thời gian tối thiểu để được cấp giấy chứng nhận kinh doanh xuất khẩu gạo là bao lâu?

Căn cứ khoản 4 Điều 6 Nghị định 107/2018/NĐ-CP quy định về thời hạn cấp giấy chứng nhận kinh doanh xuất khẩu gạo như sau:

“4. Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Bộ Công Thương xem xét, cấp Giấy chứng nhận theo Mẫu số 02 quy định tại Phụ lục kèm theo Nghị định này.

Trường hợp không cấp Giấy chứng nhận, trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Bộ Công Thương phải trả lời thương nhân bằng văn bản và nêu rõ lý do”.

Như vậy, thời hạn tối thiểu để được cấp Giấy chứng nhận kinh doanh xuất khẩu gạo là 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ.

Giấy chứng nhận kinh doanh xuất khẩu gạo đã được cấp nhưng bất cẩn làm mất thì có được cấp lại không?

Theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Nghị định 107/2018/NĐ-CP như sau:

“1. Bộ Công Thương xem xét, cấp lại Giấy chứng nhận trong các trường hợp Giấy chứng nhận bị thất lạc, bị hư hỏng hoặc bị tiêu hủy”.

Như vậy trong trường hợp Giấy chứng nhận bị thất lạc, chủ thể kinh doanh xuấy khẩu gạo có thể làm hồ sơ để cấp lại Giấy chứng nhận kinh doanh xuất khẩu gạo. Hồ sơ để cấp lại Giấy chứng nhận kinh doanh xuất khẩu gạo cũng được quy định tại khoản 1 Điều 7 Nghị định 107/2018/NĐ-CP gồm: Đơn đề nghị theo Mẫu số 03 quy định tại Phụ lục kèm theo Nghị định 107/2018/NĐ-CP; Bản chính Giấy chứng nhận đã được cấp. Trường hợp không còn bản chính do bị thất lạc, bị hư hỏng hoặc bị tiêu hủy, thương nhân phải có báo cáo giải trình và nêu rõ lý do.

IV. Dịch vụ tư vấn pháp lý liên quan về giấy chứng nhận kinh doanh xuất khẩu gạo

Hiểu được nhu cầu tìm hiểu quy định liên quan đến giấy chứng nhận kinh doanh xuất khẩu gạo của Quý Khách hàng, Công ty Luật TNHH Ngọc Phú sẽ hỗ trợ, tư vấn cho Quý Khách hàng các quy định pháp lý liên quan đến giấy chứng nhận kinh doanh xuất khẩu gạo. Công ty Luật TNHH Ngọc Phú với kinh nghiệm cung cấp dịch vụ pháp lý dày dặn tin rằng sẽ đem lại cho khách hàng sự an tâm và hài lòng khi sử dụng dịch vụ của chúng tôi. Quý độc giả có thể liên hệ ngay tới NPLaw để được các luật sư dày dặn kinh nghiệm của NPLaw tư vấn tận tình và nhanh chóng với thông tin liên hệ dưới đây:

Tổng đài tư vấn và CSKH: 1900 9343

Quy định xin cấp Giấy chứng nhận mới là không cần thiết

Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vừa có văn bản phúc đáp Bộ Công Thương về việc góp ý Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 107/2018/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo (Dự thảo).

Theo đó, về thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo, VCCI cho biết, Điều 7 của Nghị định 107 hiện quy định thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện xuất khẩu gạo thuộc về Bộ Công Thương.

Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp (DN) phản ánh với VCCI về chi phí và thời gian đi lại để nộp hồ sơ và nhận Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh khá lớn, nhất là khi các DN xuất khẩu gạo chủ yếu nằm ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Trong khi đó, việc kiểm tra đủ điều kiện về kho và máy xay xát vẫn do các Sở Công Thương thường xuyên thực hiện.

“Do đó, để cải cách thủ tục hành chính, tăng cường phân cấp, đề nghị điều chỉnh quy định theo hướng giao thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo cho UBND cấp tỉnh hoặc Sở Công Thương. Sở Công Thương sẽ chịu trách nhiệm báo cáo về việc cấp phép cho Bộ Công Thương và DN vẫn phải báo cáo hoạt động đối với Bộ Công Thương định kỳ” – đơn vị đại diện cộng đồng DN nêu ý kiến.

Mặt khác, về thời hạn của Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, VCCI cho biết, Điều 6.5 của Nghị định 107 quy định thời hạn của Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo là 05 năm. Sau mỗi 05 năm, DN phải xin cấp Giấy chứng nhận mới với thủ tục chứng minh đủ điều kiện kinh doanh tương tự như lần đầu.

Tuy nhiên, theo quy định tại Nghị định 107 và phản ánh của các DN, Sở Công Thương các địa phương vẫn thường xuyên kiểm tra định kỳ DN về việc đáp ứng điều kiện kinh doanh (kho và cơ sở xay xát) và kịp thời phát hiện, thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh đối với DN không đủ điều kiện.

Theo đó, VCCI cho rằng, do đã có việc kiểm tra đáp ứng điều kiện thường xuyên, nên việc yêu cầu DN phải xin cấp Giấy chứng nhận mới sau mỗi 05 năm là không cần thiết. Do đó, đề nghị bãi bỏ quy định về thời hạn của Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo.

Quy định về điều kiện xuất khẩu gạo còn bất hợp lý?

Cũng theo VCCI, so với quy định của Nghị định 109/2010/NĐ-CP, Nghị định 107/2018/NĐ-CP đã bãi bỏ quy định về quy mô kho chứa (5000 tấn thóc) và công suất cơ sở xay, xát (10 tấn/h). Nghị định 107 chỉ còn yêu cầu DN phải có kho và cơ sở xay, xát phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật quốc gia tương ứng.

Theo đại diện cộng đồng DN, việc hạ các điều kiện đầu tư kinh doanh đã giúp tăng số lượng thương nhân xuất khẩu gạo, tăng tính cạnh tranh của thị trường lúa gạo. Thực tiễn cho thấy, từ khi Nghị định 107 ra đời, người nông dân có thêm sự lựa chọn khi tiêu thụ lúa gạo mình làm ra, giảm tình trạng bị ép giá. Đồng thời, nhiều DN đã phát hiện và thâm nhập các thị trường khó tính mà trước đây gạo của Việt Nam chưa thể tiếp cận.

Tuy nhiên, theo phản ánh của một số DN, để có thể đáp ứng được Quy chuẩn kỹ thuật về kho và cơ sở xay, xát thóc gạo tại Thông tư 12/2013/TT-BNNPTNT, DN vẫn cần có chi phí đầu tư lớn, kể cả trong trường hợp đi thuê.

Bởi vì Thông tư 12 vẫn yêu cầu nhiều điều kiện mang tính quy mô như dung tích của silo chứa gạo, công suất của máy xay xát 10 tấn/h và nhiều yêu cầu khác. Các điều kiện này chỉ phù hợp với các DN xuất khẩu gạo số lượng lớn nhưng rất khó đáp ứng đối với doanh nghiệp nhỏ đang cố gắng thâm nhập các thị trường mới.

Trong khi đó, nhiều DN của Việt Nam rất năng động trong việc tìm kiếm các thị trường mới như Châu Âu, Canada, Trung Đông… Đây là những thị trường đòi hỏi số lượng gạo ít, nhưng chất lượng cao, quy cách bảo quản, đóng gói tốt và có giá tốt.

Hơn nữa, khách hàng tại các thị trường này (như các siêu thị, chuỗi của hàng…) thường có nhu cầu tìm kiếm các DN cung cấp nhiều loại nông sản cùng lúc, chứ không chỉ riêng mặt hàng gạo. Các DN này vẫn không thể đáp ứng điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo cao như trên mà buộc phải uỷ thác xuất khẩu cho DN đủ điều kiện.

Đáng chú ý, theo phản ánh của các DN, mức phí uỷ thác xuất khẩu hiện khoảng 01 đến 05 đô la mỗi tấn hàng. Nói cách khác, các DN có Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh đang có quyền cho thuê Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh để được hưởng mức phí này. Vô hình trung, các quy định về điều kiện xuất khẩu gạo đang khiến hạt gạo của Việt Nam trở nên đắt hơn, khó xuất khẩu hơn.

“Do đó, về lâu dài, đề nghị tiếp tục giảm các điều kiện đầu tư kinh doanh xuất khẩu gạo, tiến tới tự do hoá thị trường. Việc bảo đảm dự trữ gạo bắt buộc nên được thực hiện theo hình thức Nhà nước đặt hàng DN theo cơ chế thị trường, thay vì biện pháp hành chính như hiện nay” – VCCI kiến nghị.